Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 4.17

Tương Ưng Bộ 4.17
Saṃyutta Nikāya 4.17

2. Phẩm Thứ Hai
2. Dutiyavagga

Xứ
Chaphassāyatanasutta

Một thời Thế Tôn trú ở Vesālī (Tỳ-xá-ly), Ðại Lâm, chỗ Trùng Các giảng đường.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho các Tỷ-kheo về sáu xúc xứ, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các vị Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tư tưởng, lóng tai nghe pháp.
Tena kho pana samayena bhagavā channaṃ phassāyatanānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sampahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti.

Rồi Ác ma suy nghĩ: “Sa-môn Gotama này đang thuyết pháp cho các Tỷ—kheo về sáu xúc xứ, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Và các Tỷ-kheo ấy hết sức chú tâm, hết sức chú ý, tập trung mọi tâm tư, lắng tai nghe pháp. Vậy ta hãy đi đến Sa-môn Gotama và làm mờ mắt các Tỷ-kheo ấy”.
Atha kho mārassa pāpimato etadahosi: “ayaṃ kho samaṇo gotamo channaṃ phassāyatanānaṃ upādāya bhikkhūnaṃ dhammiyā kathāya sandasseti samādapeti samuttejeti sappahaṃseti. Te ca bhikkhū aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasotā dhammaṃ suṇanti. Yannūnāhaṃ yena samaṇo gotamo tenupasaṅkameyyaṃ vicakkhukammāyā”ti.

Rồi Ác ma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, Ác ma hét lên một tiếng to lớn, khủng khiếp, dễ sợ, như đất bị nứt vỡ.
Atha kho māro pāpimā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavato avidūre mahantaṃ bhayabheravaṃ saddamakāsi, apissudaṃ pathavī maññe undrīyati.

Rồi một Tỷ-kheo nói với một Tỷ-kheo khác:
Atha kho aññataro bhikkhu aññataraṃ bhikkhuṃ etadavoca:

—Này Tỷ-kheo, Tỷ-kheo, hình như quả đất này bị nứt vỡ.
“bhikkhu bhikkhu, esā pathavī maññe undrīyatī”ti.

Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với Tỷ-kheo ấy:
Evaṃ vutte, bhagavā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

—Này Tỷ-kheo, không phải đất nứt vỡ. Ðó là Ác ma đi đến để làm mờ mắt các Ông.
“nesā, bhikkhu, pathavī undrīyati. Māro eso pāpimā tumhākaṃ vicakkhukammāya āgato”ti.

Rồi Thế Tôn biết được: “Ðây là Ác ma”, liền nói bài kệ cho Ác ma:
Atha kho bhagavā “māro ayaṃ pāpimā” iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Sắc, thanh, vị và hương,
Cùng toàn bộ xúc, pháp,
Là thế vật rùng rợn,
Làm mê loạn ở đời.
“Rūpā saddā rasā gandhā,
phassā dhammā ca kevalā;
Etaṃ lokāmisaṃ ghoraṃ,
ettha loko vimucchito.

Ðệ tử bậc Chánh Giác,
Chánh niệm, vượt khỏi chúng,
Vượt thế lực Ác ma,
Như mặt trời sáng chói.”
Etañca samatikkamma,
sato buddhassa sāvako;
Māradheyyaṃ atikkamma,
ādiccova virocatī”ti.

Rồi Ác ma biết được: “Thế Tôn đã biết ta ... ”, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā ...pe... tatthevantaradhāyīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt