Tương Ưng Bộ 41.1
Saṃyutta Nikāya 41.1
1. Phẩm Tâm
1. Cittavagga
Kiết Sử
Saṃyojanasutta
Một thời, một số đông Tỷ-kheo trưởng lão trú ở Macchikāsaṇḍa, tại rừng Xoài.
Ekaṃ samayaṃ sambahulā therā bhikkhū macchikāsaṇḍe viharanti ambāṭakavane.
Lúc bấy giờ, một số đông Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà tròn, và giữa những vị này, câu chuyện sau đây được khởi lên:
Tena kho pana samayena sambahulānaṃ therānaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ maṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi:
“Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ, hay đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ?”
“‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā nānābyañjanā udāhu ekatthā byañjanameva nānan”ti?
Ở đây, một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời:
Tatrekaccehi therehi bhikkhūhi evaṃ byākataṃ hoti:
“Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ”.
“‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā cā”ti.
Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời:
Ekaccehi therehi bhikkhūhi evaṃ byākataṃ hoti:
“Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; những pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ”.
“‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti.
Lúc bấy giờ, cư sĩ Citta đi đến Migapathaka để làm một số công việc phải làm.
Tena kho pana samayena citto gahapati migapathakaṃ anuppatto hoti kenacideva karaṇīyena.
Cư sĩ Citta được nghe có một số đông Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà tròn, và giữa những vị này, câu chuyện sau đây được khởi lên:
Assosi kho citto gahapati sambahulānaṃ kira therānaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ maṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi:
“Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ, hay đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ?”
“‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā nānābyañjanā udāhu ekatthā byañjanameva nānan”ti?
Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: “Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; những pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ”.
Tatrekaccehi therehi bhikkhūhi evaṃ byākataṃ: “‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā cā”ti.
Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: “Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; những pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ”.
Ekaccehi therehi bhikkhūhi evaṃ byākataṃ: “‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti.
Rồi cư sĩ Citta đi đến các Tỷ-kheo trưởng lão ấy; sau khi đến, đảnh lễ các Tỷ-kheo trưởng lão rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yena therā bhikkhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā there bhikkhū abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Ngồi một bên, cư sĩ Citta thưa với các Tỷ-kheo trưởng lão:
Ekamantaṃ nisinno kho citto gahapati there bhikkhū etadavoca:
“Thưa Tôn Giả (chúng con) được nghe có một số đông Tỷ-kheo trưởng lão, sau buổi ăn đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại ngôi nhà tròn, và giữa các vị này, khởi lên câu chuyện sau đây:
“sutaṃ metaṃ, bhante, sambahulānaṃ kira therānaṃ bhikkhūnaṃ pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantānaṃ maṇḍalamāḷe sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ ayamantarākathā udapādi:
“Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ, hay đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ?”
“‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā nānābyañjanā udāhu ekatthā byañjanameva nānan”ti?
Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: “Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; những pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ”.
Tatrekaccehi therehi bhikkhūhi evaṃ byākataṃ: “‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā cā”ti.
Một số Tỷ-kheo trưởng lão trả lời: “Này chư Hiền, ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; những pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ”.
Ekaccehi therehi bhikkhūhi evaṃ byākataṃ: “‘saṃyojanan’ti vā, āvuso, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā ekatthā byañjanameva nānan”ti.
“Có vậy, này Cư sĩ”.
“Evaṃ, gahapatī”ti.
“Thưa Tôn Giả ‘kiết sử’ hay ‘các pháp bị kiết sử’; các pháp này là khác nghĩa và cũng khác ngôn từ.
“‘Saṃyojanan’ti vā, bhante, ‘saṃyojaniyā dhammā’ti vā ime dhammā nānatthā ceva nānābyañjanā ca.
Thưa Tôn Giả con sẽ nói lên một ví dụ cho quý vị.
Tena hi, bhante, upamaṃ vo karissāmi.
Ở đây, một số người có trí, nhờ ví dụ hiểu được ý nghĩa lời nói.
Upamāyapidhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.
Thưa Tôn Giả ví như một con bò đực đen và con bò đực trắng được dính lại với nhau bởi một sợi dây hay một cái ách. Nếu có người nói:
Seyyathāpi, bhante, kāḷo ca balībaddo odāto ca balībaddo ekena dāmena vā yottena vā saṃyuttā assu. Yo nu kho evaṃ vadeyya:
‘Con bò đực đen là kiết sử cho con bò đực trắng, và con bò đực trắng là kiết sử cho con bò đực đen’. Nói như vậy có phải là nói một cách chơn chánh không?”
‘kāḷo balībaddo odātassa balībaddassa saṃyojanaṃ, odāto balībaddo kāḷassa balībaddassa saṃyojanan’ti, sammā nu kho so vadamāno vadeyyā”ti?
“Thưa không, này Cư sĩ.
“No hetaṃ, gahapati.
Này Cư sĩ, con bò đực đen không phải là kiết sử của con bò đực trắng. Và con bò đực trắng cũng không phải là kiết sử của con bò đực đen. Do vì chúng bị dính bởi một sợi dây hay bởi một cái ách, ở đây chính cái ấy là kiết sử”.
Na kho, gahapati, kāḷo balībaddo odātassa balībaddassa saṃyojanaṃ, napi odāto balībaddo kāḷassa balībaddassa saṃyojanaṃ; yena kho te ekena dāmena vā yottena vā saṃyuttā taṃ tattha saṃyojanan”ti.
Cũng vậy, Thưa Tôn Giả con mắt không phải là trói buộc của các sắc; các sắc không phải là trói buộc của con mắt.
“Evameva kho, bhante, na cakkhu rūpānaṃ saṃyojanaṃ, na rūpā cakkhussa saṃyojanaṃ;
Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc.
yañca tattha tadubhayaṃ paṭicca uppajjati chandarāgo taṃ tattha saṃyojanaṃ.
Cái tai không phải là trói buộc của các tiếng ...
Na sotaṃ saddānaṃ ...
Mũi không phải là trói buộc của các hương ...
na ghānaṃ gandhānaṃ ...
Lưỡi không phải là trói buộc của các vị ...
na jivhā rasānaṃ ...
Thân không phải là trói buộc của các xúc. Các xúc cũng không phải là trói buộc của thân. Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc”.
na kāyo phoṭṭhabbānaṃ saṃyojanaṃ, na phoṭṭhabbā kāyassa saṃyojanaṃ; yañca tattha tadubhayaṃ paṭicca uppajjati chandarāgo taṃ tattha saṃyojanaṃ.
Ý không phải là trói buộc của các pháp. Các pháp cũng không phải là trói buộc của ý. Và ở đây, do duyên cả hai khởi lên dục tham gì, dục tham ấy ở đây chính là trói buộc”.
Na mano dhammānaṃ saṃyojanaṃ, na dhammā manassa saṃyojanaṃ; yañca tattha tadubhayaṃ paṭicca uppajjati chandarāgo taṃ tattha saṃyojanan”ti.
“Lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ! Khéo lợi ích thay cho Ông, này Cư sĩ! Vì rằng tuệ nhãn của Ông tiếp tục lời dạy thâm sâu của đức Phật”.
“Lābhā te, gahapati, suladdhaṃ te, gahapati, yassa te gambhīre buddhavacane paññācakkhu kamatī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt