Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 41.5

Tương Ưng Bộ 41.5
Saṃyutta Nikāya 41.5

1. Phẩm Tâm
1. Cittavagga

Kāmabhū (1)
Paṭhamakāmabhūsutta

Một thời Tôn giả Kāmabhū trú ở Macchikāsaṇḍa, tại rừng Xoài.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā kāmabhū macchikāsaṇḍe viharati ambāṭakavane.

Rồi gia chủ Citta đi đến Tôn giả Kāmabhū; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Kāmabhū rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho citto gahapati yenāyasmā kāmabhū tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ kāmabhuṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Tôn giả Kāmabhū nói với gia chủ Citta đang ngồi một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho cittaṃ gahapatiṃ āyasmā kāmabhū etadavoca:

“Này Gia chủ, lời này được nói đến:
“Vuttamidaṃ, gahapati:

Bộ phận được tinh thuần,
Mái trần che mầu trắng,
Chỉ có một bánh xe,
Cỗ xe liên tục chạy.
Hãy xem vị đang đến,
Không vi phạm lỗi lầm,
Chặt đứt được dòng nước,
Không còn bị trói buộc.
‘Nelaṅgo setapacchādo,
ekāro vattatī ratho;
Anīghaṃ passa āyantaṃ,
chinnasotaṃ abandhanan’ti.

Này Gia chủ, lời nói vắn tắt này, ý nghĩa phải được hiểu như thế nào một cách rộng rãi?”
Imassa nu kho, gahapati, saṅkhittena bhāsitassa kathaṃ vitthārena attho daṭṭhabbo”ti?

“Thưa Tôn giả, có phải lời nói này được Thế Tôn nói đến?”
“Kiṃ nu kho etaṃ, bhante, bhagavatā bhāsitan”ti?

“Ðúng vậy, này Gia chủ”.
“Evaṃ, gahapatī”ti.

“Vậy hãy chờ một lát, Thưa Tôn giả, con sẽ nghĩ đến ý nghĩa”.
“Tena hi, bhante, muhuttaṃ āgamehi yāvassa atthaṃ pekkhāmī”ti.

Rồi cư sĩ Citta, sau khi im lặng một lát, thưa với Tôn giả Kāmabhū:
Atha kho citto gahapati muhuttaṃ tuṇhī hutvā āyasmantaṃ kāmabhuṃ etadavoca:

“‘Bánh xe không tì vết’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với các giới luật.
“‘Nelaṅgan’ti kho, bhante, sīlānametaṃ adhivacanaṃ.

‘Mái trần che màu trắng’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với giải thoát.
‘Setapacchādo’ti kho, bhante, vimuttiyā etaṃ adhivacanaṃ.

‘Một bánh’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với niệm.
‘Ekāro’ti kho, bhante, satiyā etaṃ adhivacanaṃ.

‘Vẫn chạy’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với đi tới đi lui.
‘Vattatī’ti kho, bhante, abhikkamapaṭikkamassetaṃ adhivacanaṃ.

“Xe”, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với cái thân do bốn đại tạo thành này, do cha mẹ sanh ra, do cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, bị biến hoại, bị tiêu mòn, bị tiêu hủy, bị hủy diệt.
‘Ratho’ti kho, bhante, imassetaṃ cātumahābhūtikassa kāyassa adhivacanaṃ mātāpettikasambhavassa odanakummāsūpacayassa aniccucchādanaparimaddanabhedanaviddhaṃsanadhammassa.

Tham, Thưa Tôn giả, là một lỗi lầm. Sân là một lỗi lầm. Si là một lỗi lầm.
Rāgo kho, bhante, nīgho, doso nīgho, moho nīgho.

Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng được đoạn tận, chặt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây Ta-la, không có thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Do vậy, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc được gọi là ‘điềm tĩnh’.
Tasmā khīṇāsavo bhikkhu ‘anīgho’ti vuccati.

‘Vị điềm tĩnh đang đến’, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với vị A-la-hán.
‘Āyantan’ti kho, bhante, arahato etaṃ adhivacanaṃ.

“Dòng (hữu ái)”, Thưa Tôn giả, là đồng nghĩa với khát ái.
‘Soto’ti kho, bhante, taṇhāyetaṃ adhivacanaṃ.

Ðối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, khát ái ấy được đoạn tận, cắt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Ta-la, không có thể tái sanh, không có thể sanh khởi trong tương lai.
Sā khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Do vậy, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc được gọi là cắt đứt dòng (hữu ái).
Tasmā khīṇāsavo bhikkhu ‘chinnasoto’ti vuccati.

Tham, Thưa Tôn giả, là trói buộc. Sân là trói buộc. Si là trói buộc.
Rāgo kho, bhante, bandhanaṃ, doso bandhanaṃ, moho bandhanaṃ.

Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc, chúng được đoạn tận, chặt đứt tận gốc rễ, làm cho như thân cây Ta-la, không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai.
Te khīṇāsavassa bhikkhuno pahīnā ucchinnamūlā tālāvatthukatā anabhāvaṅkatā āyatiṃ anuppādadhammā.

Do vậy, Tỷ-kheo đoạn tận các lậu hoặc được gọi là ‘không còn bị buộc’.
Tasmā khīṇāsavo bhikkhu ‘abandhano’ti vuccati.

Như vậy, Thưa Tôn giả, lời nói này được Thế Tôn nói đến:
Iti kho, bhante, yaṃ taṃ bhagavatā vuttaṃ:

Bộ phận được tinh thuần,
Mái trần che mầu trắng,
Chỉ có một bánh xe,
Cỗ xe liên tục chạy.
Hãy xem vị đang đến,
Không vi phạm lỗi lầm,
Chặt đứt được dòng nước,
Không còn bị trói buộc.
‘Nelaṅgo setapacchādo,
ekāro vattatī ratho;
Anīghaṃ passa āyantaṃ,
chinnasotaṃ abandhanan’ti.

Thưa Tôn giả, lời nói vắn tắt này, ý nghĩa cần phải được hiểu rộng là như vậy”.
Imassa kho, bhante, bhagavatā saṅkhittena bhāsitassa evaṃ vitthārena atthaṃ ājānāmī”ti.

“Lợi đắc thay cho Ông, này Gia chủ! Khéo lợi đắc thay cho Ông, này Gia chủ!
“Lābhā te, gahapati, suladdhaṃ te, gahapati.

Vì rằng tuệ nhãn của Ông tiếp tục lời dạy thâm sâu của đức Phật”.
Yassa te gambhīre buddhavacane paññācakkhu kamatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt