Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 42.11

Tương Ưng Bộ 42.11
Saṃyutta Nikāya 42.11

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Bhadraka
Bhadrakasutta

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Malla tại Uruvelakappa, một thị trấn của dân chúng Malla.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā mallesu viharati uruvelakappaṃ nāma mallānaṃ nigamo.

Rồi thôn trưởng Bhadraka đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho bhadrako gāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi xuống một bên, thôn trưởng Bhadraka bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinno kho bhadrako gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết cho con về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ!”
“sādhu me, bhante, bhagavā dukkhassa samudayañca atthaṅgamañca desetū”ti.

“Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời quá khứ, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng:
“Ahañce te, gāmaṇi, atītamaddhānaṃ ārabbha dukkhassa samudayañca atthaṅgamañca deseyyaṃ:

‘Như vậy đã xảy ra trong thời quá khứ’; ở đây, Ông sẽ phân vân, sẽ có nghi ngờ.
‘evaṃ ahosi atītamaddhānan’ti, tatra te siyā kaṅkhā, siyā vimati.

Này Thôn trưởng, nếu y cứ vào thời vị lai, Ta thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ, nói rằng:
Ahañce te, gāmaṇi, anāgatamaddhānaṃ ārabbha dukkhassa samudayañca atthaṅgamañca deseyyaṃ:

‘Như vậy sẽ xảy ra trong thời tương lai’; ở đây, Ông sẽ có phân vân, sẽ có nghi ngờ.
‘evaṃ bhavissati anāgatamaddhānan’ti, tatrāpi te siyā kaṅkhā, siyā vimati.

Nhưng nay Ta ngồi chính ở đây, này Thôn trưởng, với Ông cũng ngồi ở đây, Ta sẽ thuyết cho Ông về sự tập khởi và sự chấm dứt của khổ.
Api cāhaṃ, gāmaṇi, idheva nisinno ettheva te nisinnassa dukkhassa samudayañca atthaṅgamañca desessāmi.

Hãy lắng nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói”.
Taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Thôn trưởng Bhadraka vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
“Evaṃ, bhante”ti kho bhadrako gāmaṇi bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca:

“Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, ở tại Uruvelakappa có những người, nếu họ bị giết, hay bị tù, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, Ông có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?”
“Taṃ kiṃ maññasi, gāmaṇi, atthi te uruvelakappe manussā yesaṃ te vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Thưa có, bạch Thế Tôn. Ở tại Uruvelakappa có những người, nếu họ bị giết hay bị tù, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, thì con có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não”.
“Atthi me, bhante, uruvelakappe manussā yesaṃ me vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti.

“Này Thôn trưởng, ở tại Uruvelakappa này có những người, nếu họ bị giết, hay bị tù, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, nhưng Ông không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não?”
“Atthi pana te, gāmaṇi, uruvelakappe manussā yesaṃ te vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā nuppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Thưa có, bạch Thế Tôn, ở tại Uruvelakappa có những người, nếu họ bị giết, hay bị tù, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, nhưng con không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não”.
“Atthi me, bhante, uruvelakappe manussā yesaṃ me vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā nuppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti.

“Do nhân gì, do duyên gì, này Thôn trưởng, đối với một số người ở tại Uruvelakappa, nếu họ bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, thì Ông có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não?”
“Ko nu kho, gāmaṇi, hetu, ko paccayo yena te ekaccānaṃ uruvelakappiyānaṃ manussānaṃ vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Ðối với một số người ở tại Uruvelakappa, bạch Thế Tôn, nếu họ bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, con có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não, là vì con có dục và tham đối với họ.
“Yesaṃ me, bhante, uruvelakappiyānaṃ manussānaṃ vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā, atthi me tesu chandarāgo.

Do nhân gì, do duyên gì, này Thôn trưởng, đối với một số người ở Uruvelakappa, nếu họ bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích nhưng Ông không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não?

Nhưng đối với một số người ở tại Uruvelakappa, bạch Thế Tôn, nếu họ bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, nhưng con không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não, là vì con không có dục và tham đối với họ”.
Yesaṃ pana, bhante, uruvelakappiyānaṃ manussānaṃ vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā nuppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā, natthi me tesu chandarāgo”ti.

Ông nói: “Con có lòng dục tham đối với họ. Con không có lòng dục tham đối với họ”.

“Này Thôn trưởng, có phải được thấy, được biết, được đạt tới tức thời, được thể nhập nhờ pháp này, Ông uốn nắn phương pháp (naya) theo phương pháp ấy đối với quá khứ, vị lai?
“Iminā tvaṃ, gāmaṇi, dhammena diṭṭhena viditena akālikena pattena pariyogāḷhena atītānāgate nayaṃ nehi:

‘Nếu có khổ nào khởi lên trong quá khứ, tất cả khổ ấy khởi lên lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân.
‘yaṃ kho kiñci atītamaddhānaṃ dukkhaṃ uppajjamānaṃ uppajji sabbaṃ taṃ chandamūlakaṃ chandanidānaṃ.

Dục là căn bản của khổ.
Chando hi mūlaṃ dukkhassa.

Phàm có khổ nào khởi lên trong tương lai, tất cả khổ ấy khởi lên lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân.
Yampi hi kiñci anāgatamaddhānaṃ dukkhaṃ uppajjamānaṃ uppajjissati, sabbaṃ taṃ chandamūlakaṃ chandanidānaṃ.

Dục là căn bản của khổ’.”
Chando hi mūlaṃ dukkhassā’”ti.

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn! Thật là khéo nói, lời nói này của Thế Tôn:
“Acchariyaṃ, bhante, abbhutaṃ, bhante. Yāva subhāsitañcidaṃ, bhante, bhagavatā:

‘Phàm có khổ gì khởi lên, tất cả khổ ấy khởi lên đều lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân.
‘yaṃ kiñci dukkhaṃ uppajjamānaṃ uppajjati, sabbaṃ taṃ chandamūlakaṃ chandanidānaṃ.

Dục là căn bản của khổ!’
Chando hi mūlaṃ dukkhassā’ti.

Bạch Thế Tôn, con có người con trai tên là Ciravāsi, sống xa ở đây.
Atthi me, bhante, ciravāsī nāma kumāro bahi āvasathe paṭivasati.

Khi giờ nó dậy, bạch Thế Tôn, con cử người đi và nói:
So khvāhaṃ, bhante, kālasseva vuṭṭhāya purisaṃ uyyojemi:

‘Này Ông, hãy đi và hỏi thăm đứa trẻ Ciravāsi’.
‘gaccha, bhaṇe, ciravāsiṃ kumāraṃ jānāhī’ti.

Cho đến khi người ấy trở về, bạch Thế Tôn, con ở trong tình trạng bồn chồn hồi hộp:
Yāvakīvañca, bhante, so puriso nāgacchati, tassa me hoteva aññathattaṃ:

‘Không biết đứa trẻ Ciravāsi có bệnh tật gì không’?”
‘mā heva ciravāsissa kumārassa kiñci ābādhayitthā’”ti.

“Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, nếu đứa trẻ Ciravāsi của Ông bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, Ông có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?”
“Taṃ kiṃ maññasi, gāmaṇi, ciravāsissa kumārassa vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Bạch Thế Tôn, nếu đứa con trai Ciravāsi của con bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, hay sinh mạng bị đổi khác, thời làm sao con không khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não được?”
“Ciravāsissa me, bhante, kumārassa vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā jīvitassapi siyā aññathattaṃ, kiṃ pana me nuppajjissanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti.

“Với pháp môn này, này Thôn trưởng, cần phải hiểu như sau:
“Imināpi kho etaṃ, gāmaṇi, pariyāyena veditabbaṃ:

‘Phàm có khổ nào khởi lên, tất cả khổ ấy đều lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân. Dục là căn bản của khổ’.
‘yaṃ kiñci dukkhaṃ uppajjamānaṃ uppajjati, sabbaṃ taṃ chandamūlakaṃ chandanidānaṃ. Chando hi mūlaṃ dukkhassā’ti.

Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, nếu Ông không thấy, không nghe mẹ của Ciravāsi, Ông có lòng dục, lòng tham hay lòng ái đối với mẹ của Ciravāsi không?”
Taṃ kiṃ maññasi, gāmaṇi, yadā te ciravāsimātā adiṭṭhā ahosi, assutā ahosi, te ciravāsimātuyā chando vā rāgo vā pemaṃ vā”ti?

“Thưa không, bạch Thế Tôn”.
“No hetaṃ, bhante”.

“Nhưng này Thôn trưởng, khi Ông thấy được, này Thôn trưởng, khi Ông nghe được, thời Ông có lòng dục, hay lòng tham, hay lòng ái đối với mẹ của Ciravāsi không?”
“Dassanaṃ vā te, gāmaṇi, āgamma savanaṃ vā evaṃ te ahosi: ‘ciravāsimātuyā chando vā rāgo vā pemaṃ vā’”ti?

“Thưa có, bạch Thế Tôn”.
“Evaṃ, bhante”.

“Ông nghĩ thế nào, này Thôn trưởng, nếu mẹ của Ciravāsi bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, thời Ông có khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não không?”
“Taṃ kiṃ maññasi, gāmaṇi, ciravāsimātuyā te vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā uppajjeyyuṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti?

“Bạch Thế Tôn, nếu mẹ của Ciravāsi bị giết, hay bị bắt, hay bị thiệt hại, hay bị chỉ trích, hay mạng sống bị đổi khác, thời làm sao con không khởi sầu, bi, khổ, ưu, não được?”
“Ciravāsimātuyā me, bhante, vadhena vā bandhena vā jāniyā vā garahāya vā jīvitassapi siyā aññathattaṃ, kiṃ pana me nuppajjissanti sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā”ti.

“Với pháp môn này, này Thôn trưởng, cần phải hiểu biết như sau:
“Imināpi kho etaṃ, gāmaṇi, pariyāyena veditabbaṃ:

‘Phàm có khổ gì khởi lên, tất cả khổ ấy đều lấy dục làm căn bản, lấy dục làm sở nhân.
‘yaṃ kiñci dukkhaṃ uppajjamānaṃ uppajjati, sabbaṃ taṃ chandamūlakaṃ chandanidānaṃ.

Dục là căn bản của đau khổ’.”
Chando hi mūlaṃ dukkhassā’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt