Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 42.5

Tương Ưng Bộ 42.5
Saṃyutta Nikāya 42.5

1. Phẩm Thôn Trưởng
1. Gāmaṇivagga

Ngựa
Assārohasutta

Rồi Mã sư (người huấn luyện ngựa) đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Mã sư bạch Thế Tôn:
Atha kho assāroho gāmaṇi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho assāroho gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Con được nghe, bạch Thế Tôn, các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các Mã tướng, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ assārohānaṃ bhāsamānānaṃ:

‘Vị Mã tướng nào trong chiến trường, hăng say, tinh tấn; do hăng hay tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại; vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.
‘yo so assāroho saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thôi vừa rồi, này Mã sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này”.
“Alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī”ti.

Lần thứ hai ...
Dutiyampi kho ...pe...

Lần thứ ba, Mã sư bạch Thế Tôn:
tatiyampi kho assāroho gāmaṇi bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con được nghe các vị Ðạo sư, Tổ sư thuở xưa nói về các Mã tướng, nói rằng:
“sutaṃ metaṃ, bhante, pubbakānaṃ ācariyapācariyānaṃ assārohānaṃ bhāsamānānaṃ:

‘Vị Mã tướng nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.
‘yo so assāroho saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti.

Ở đây, Thế Tôn nói như thế nào?”
Idha bhagavā kimāhā”ti?

“Thật sự, Ta đã không chấp nhận và nói rằng: ‘Thôi vừa rồi, này Mã sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.
“Addhā kho tyāhaṃ, gāmaṇi, na labhāmi: ‘alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī’ti.

Tuy vậy, Ta sẽ trả lời.
Api ca kho tyāhaṃ byākarissāmi.

Này Mã sư, đối với Mã tướng nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn, tâm của vị ấy trước đó phải có những ý nghĩ thấp kém, ác ý, ác nguyện như sau:
Yo so, gāmaṇi, assāroho saṅgāme ussahati vāyamati tassa taṃ cittaṃ pubbe gahitaṃ dukkaṭaṃ duppaṇihitaṃ:

‘Mong rằng các loài hữu tình ấy bị giết, bị bắt, bị tàn sát, bị tàn hại!’, hay: ‘Mong họ chớ có tồn tại!’ Do vị ấy hăng hái, tinh tấn như vậy, nếu vị ấy bị người khác tàn sát, đánh bại, thời người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào địa ngục (tên là Sarājita).
‘ime sattā haññantu vā bajjhantu vā ucchijjantu vā vinassantu vā mā ahesuṃ iti vā’ti. Tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajito nāma nirayo tattha upapajjati.

Nếu người ấy có tà kiến như sau: ‘Vị Mã tướng nào giữa chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.
Sace kho panassa evaṃ diṭṭhi hoti: ‘yo so assāroho saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’ti,

Như vậy là tà kiến. Ai rơi vào tà kiến này, này Mã sư, Ta nói rằng, người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: Một là địa ngục, hai là súc sanh”.
sāssa hoti micchādiṭṭhi. Micchādiṭṭhikassa kho panāhaṃ, gāmaṇi, purisapuggalassa dvinnaṃ gatīnaṃ aññataraṃ gatiṃ vadāmi—nirayaṃ vā tiracchānayoniṃ vā”ti.

Khi được nói vậy, vị Mã sư phát khóc, rơi nước mắt.
Evaṃ vutte, assāroho gāmaṇi parodi, assūni pavattesi.

“Chính vì vậy, này Mã sư, Ta không chấp nhận và nói: ‘Thôi vừa rồi, này Mã sư. Hãy dừng ở đây. Chớ có hỏi Ta về điều này’.”
“Etaṃ kho tyāhaṃ, gāmaṇi, nālatthaṃ: ‘alaṃ, gāmaṇi, tiṭṭhatetaṃ; mā maṃ etaṃ pucchī’”ti.

“Bạch Thế Tôn, con khóc không phải vì Thế Tôn đã nói như vậy.
“Nāhaṃ, bhante, etaṃ rodāmi yaṃ maṃ bhagavā evamāha.

Nhưng, bạch Thế Tôn, vì con đã bị các Ðạo sư, các Tổ sư, các Mã tướng thuở trước đã lâu ngày lừa dối con, dối trá con, dắt dẫn con lầm lạc, nói rằng:
Api cāhaṃ, bhante, pubbakehi ācariyapācariyehi assārohehi dīgharattaṃ nikato vañcito paluddho:

‘Ai là người Mã tướng giữa các chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên (tên là Sarājita)’.”
‘yo so assāroho saṅgāme ussahati vāyamati, tamenaṃ ussahantaṃ vāyamantaṃ pare hananti pariyāpādenti, so kāyassa bhedā paraṃ maraṇā parajitānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatī’”ti.

“Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! ... Từ nay cho đến mệnh chung con trọn đời quy ngưỡng!”
“Abhikkantaṃ, bhante ...pe... ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt