Tương Ưng Bộ 47.16
Saṃyutta Nikāya 47.16
2. Phẩm Nāḷandā
2. Nālandavagga
Uttiya
Uttiyasutta
Ở Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.
Rồi Tôn giả Uttiya đi đến Thế Tôn; sau khi đến ... Ngồi một bên, Tôn giả Uttiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā uttiyo yena bhagavā tenupasaṅkami ...pe... ekamantaṃ nisinno kho āyasmā uttiyo bhagavantaṃ etadavoca:
“Lành thay, bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn thuyết pháp vắn tắt cho con. Sau khi nghe Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.”
“sādhu me, bhante, bhagavā saṅkhittena dhammaṃ desetu, yamahaṃ bhagavato dhammaṃ sutvā eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto vihareyyan”ti.
“Như vậy, này Uttiya, hãy làm cho thanh tịnh các pháp căn bản trong các thiện pháp.
“Tasmātiha tvaṃ, uttiya, ādimeva visodhehi kusalesu dhammesu.
Thế nào là các pháp căn bản trong các thiện pháp?
Ko cādi kusalānaṃ dhammānaṃ?
Giới khéo thanh tịnh và tri kiến chánh trực.
Sīlañca suvisuddhaṃ, diṭṭhi ca ujukā.
Và này Uttiya, khi nào Ông có giới khéo thanh tịnh, và tri kiến chánh trực; rồi này Uttiya, y cứ vào giới, an trú vào giới, Ông hãy tu tập bốn niệm xứ.
Yato ca kho te, uttiya, sīlañca suvisuddhaṃ bhavissati, diṭṭhi ca ujukā, tato tvaṃ, uttiya, sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya cattāro satipaṭṭhāne bhāveyyāsi.
Thế nào là bốn?
Katame cattāro?
Ở đây, này Uttiya, Ông hãy trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
Idha tvaṃ, uttiya, kāye kāyānupassī viharāhi ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Hãy trú, quán thọ trên các thọ ...
vedanāsu ...pe...
Hãy trú, quán tâm trên tâm ...
citte ...pe...
Hãy trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
dhammesu dhammānupassī viharāhi ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.
Khi nào, này Uttiya, y cứ vào giới, an trú vào giới, Ông tu tập như vậy bốn niệm xứ này. Do vậy, này Uttiya, ban đêm hay bàn ngày, chờ đợi là các thiện pháp tăng trưởng, không phải tổn giảm.”
Yato kho tvaṃ, uttiya, sīlaṃ nissāya sīle patiṭṭhāya ime cattāro satipaṭṭhāne evaṃ bhāvessasi, tato tvaṃ, uttiya, gamissasi maccudheyyassa pāran”ti.
Rồi Tôn giả Uttiya hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho āyasmā uttiyo bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
Rồi Tôn giả Uttiya sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu chứng được mục đích mà người thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Chính là vô thượng Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, vị ấy tự mình chứng ngộ với thượng trí, chứng đạt và an trú.
Atha kho āyasmā uttiyo eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva—yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ—brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi.
Vị ấy rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
“Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā”ti abbhaññāsi.
Rồi Tôn giả Uttiya trở thành một vị A-la-hán nữa.
Aññataro ca panāyasmā uttiyo arahataṃ ahosīti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt