Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 47.19

Tương Ưng Bộ 47.19
Saṃyutta Nikāya 47.19

2. Phẩm Nāḷandā
2. Nālandavagga

Sedaka, hay Ekantaka
Sedakasutta

Một thời Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sumbha, tại Sedaka, một thị trấn của dân chúng Sumbha.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sumbhesu viharati sedakaṃ nāma sumbhānaṃ nigamo.

Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo và bảo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Thuở trước, này các Tỷ-kheo, một người nhào lộn với cây tre, sau khi dựng lên một cây tre, liền bảo người đệ tử tên là Medakathālikā:
“bhūtapubbaṃ, bhikkhave, caṇḍālavaṃsiko caṇḍālavaṃsaṃ ussāpetvā medakathālikaṃ antevāsiṃ āmantesi:

‘Này Medakathālikā, hãy đến, leo lên cây tre và đứng trên vai ta’.
‘ehi tvaṃ, samma medakathālike, caṇḍālavaṃsaṃ abhiruhitvā mama uparikhandhe tiṭṭhāhī’ti.

‘Thưa thầy, vâng’. Này các Tỷ-kheo, đệ tử Medakathālikā vâng đáp người nhào lộn trên cây tre, leo lên cây tre và đứng trên vai của thầy.
‘Evaṃ, ācariyā’ti kho, bhikkhave, medakathālikā antevāsī caṇḍālavaṃsikassa paṭissutvā caṇḍālavaṃsaṃ abhiruhitvā ācariyassa uparikhandhe aṭṭhāsi.

Rồi này các Tỷ-kheo, người nhào lộn trên cây tre nói với đệ tử Medakathālikā:
Atha kho, bhikkhave, caṇḍālavaṃsiko medakathālikaṃ antevāsiṃ etadavoca:

‘Này Medakathālikā, Ông hộ trì cho ta và ta sẽ hộ trì cho Ông.
‘tvaṃ, samma medakathālike, mamaṃ rakkha, ahaṃ taṃ rakkhissāmi.

Như vậy, chúng ta nhờ che chở cho nhau, nhờ hộ trì cho nhau, trình bày các tiết mục, thâu hoạch được lợi tức và leo xuống cây tre một cách an toàn’.
Evaṃ mayaṃ aññamaññaṃ guttā aññamaññaṃ rakkhitā sippāni ceva dassessāma, lābhañca lacchāma, sotthinā ca caṇḍālavaṃsā orohissāmā’ti.

Khi được nghe nói vậy, này các Tỷ-kheo, đệ tử Medakathālikā nói với người nhào lộn trên cây tre:
Evaṃ vutte, bhikkhave, medakathālikā antevāsī caṇḍālavaṃsikaṃ etadavoca:

‘Thưa thầy, không nên như vậy.
‘na kho panetaṃ, ācariya, evaṃ bhavissati.

Thưa thầy, nên như vầy: Thầy nên hộ trì tự ngã thầy và con sẽ hộ trì tự ngã con.
Tvaṃ, ācariya, attānaṃ rakkha, ahaṃ attānaṃ rakkhissāmi.

Như vậy, chúng ta tự che chở cho mình, tự hộ trì cho mình, trình bày các tiết mục, thâu hoạch được lợi ích, và leo xuống cây tre một cách an toàn. Ðây là chánh lý cần phải làm’.”
Evaṃ mayaṃ attaguttā attarakkhitā sippāni ceva dassessāma, lābhañca lacchāma, sotthinā ca caṇḍālavaṃsā orohissāmā’”ti.

Thế Tôn nói: “Đó là cách ta nói”. “Như đệ tử Medakathālikā đã nói với thầy của ông ấy.
“So tattha ñāyo”ti bhagavā etadavoca, “yathā medakathālikā antevāsī ācariyaṃ avoca.

Này các Tỷ-kheo, “Tôi sẽ hộ trì cho mình”, tức là niệm xứ cần phải thực hành.
Attānaṃ, bhikkhave, rakkhissāmīti satipaṭṭhānaṃ sevitabbaṃ;

Này các Tỷ-kheo, “Chúng ta sẽ hộ trì người khác”, tức là niệm xứ cần phải thực hành.
paraṃ rakkhissāmīti satipaṭṭhānaṃ sevitabbaṃ.

Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.
Attānaṃ, bhikkhave, rakkhanto paraṃ rakkhati, paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhati.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào trong khi hộ trì cho mình, là hộ trì người khác?
Kathañca, bhikkhave, attānaṃ rakkhanto paraṃ rakkhati?

Chính do sự thực hành, do sự tu tập, do sự làm cho sung mãn.
Āsevanāya, bhāvanāya, bahulīkammena—

Như vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi hộ trì cho mình, là hộ trì người khác.
evaṃ kho, bhikkhave, attānaṃ rakkhanto paraṃ rakkhati.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình?
Kathañca, bhikkhave, paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhati?

Chính do sự kham nhẫn, do sự vô hại, do lòng từ, do lòng ai mẫn.
Khantiyā, avihiṃsāya, mettacittatāya, anudayatāya—

Như vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình.
evaṃ kho, bhikkhave, paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhati.

Này các Tỷ-kheo, “Tôi sẽ hộ trì cho mình”, tức là niệm xứ cần phải thực hành.
Attānaṃ, bhikkhave, rakkhissāmīti satipaṭṭhānaṃ sevitabbaṃ;

Này các Tỷ-kheo, “Tôi sẽ hộ trì người khác”, tức là niệm xứ cần phải thực hành.
paraṃ rakkhissāmīti satipaṭṭhānaṃ sevitabbaṃ.

Trong khi hộ trì cho mình, này các Tỷ-kheo, là hộ trì người khác. Trong khi hộ trì người khác, là hộ trì cho mình”.
Attānaṃ, bhikkhave, rakkhanto paraṃ rakkhati, paraṃ rakkhanto attānaṃ rakkhatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt