Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 47.9

Tương Ưng Bộ 47.9
Saṃyutta Nikāya 47.9

1. Phẩm Ambapālī
1. Ambapālivagga

Bệnh
Gilānasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn trú ở Vesālī, tại làng Beluva.
ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati veḷuvagāmake.

Ở đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Hãy đến, này các Tỷ-kheo, hãy an cư vào mùa mưa xung quanh Vesālī, chỗ nào có bạn bè, có người quen biết, có người thân thiết.
“etha tumhe, bhikkhave, samantā vesāliyā yathāmittaṃ yathāsandiṭṭhaṃ yathāsambhattaṃ vassaṃ upetha.

Ở đây, Ta sẽ an cư mùa mưa tại làng Veluva này.”
Idhevāhaṃ veḷuvagāmake vassaṃ upagacchāmī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, an cư mùa mưa xung quanh Vesālī, tại chỗ có bạn bè, có người quen biết, có người thân thiết.
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paṭissutvā samantā vesāliyā yathāmittaṃ yathāsandiṭṭhaṃ yathāsambhattaṃ vassaṃ upagacchuṃ.

Còn Thế Tôn thời an cư mùa mưa tại làng Beluva.
Bhagavā pana tattheva veḷuvagāmake vassaṃ upagacchi.

Trong khi Thế Tôn an cư mùa mưa, một cơn bệnh trầm trọng khởi lên, những cảm thọ khốc liệt gần như chết tiếp diễn.
Atha kho bhagavato vassūpagatassa kharo ābādho uppajji, bāḷhā vedanā vattanti māraṇantikā.

Ở đây, Thế Tôn chánh niệm, tỉnh giác, không có than vãn.
Tatra sudaṃ bhagavā sato sampajāno adhivāsesi avihaññamāno.

Rồi Thế Tôn suy nghĩ:
Atha kho bhagavato etadahosi:

“Thật không tương xứng đối với Ta, nếu Ta không báo trước các vị ủng hộ Ta và không từ giã chúng Tỷ-kheo mà nhập Niết-bàn.
“na kho me taṃ patirūpaṃ, yohaṃ anāmantetvā upaṭṭhāke anapaloketvā bhikkhusaṅghaṃ parinibbāyeyyaṃ.

Vậy Ta hãy tinh tấn nhiếp phục trọng bệnh này, lưu giữ mạng hành và sống”.
Yannūnāhaṃ imaṃ ābādhaṃ vīriyena paṭipaṇāmetvā jīvitasaṅkhāraṃ adhiṭṭhāya vihareyyan”ti.

Rồi Thế Tôn với sức tinh tấn nhiếp phục trọng bệnh ấy, lưu giữ mạng hành và sống.
Atha kho bhagavā taṃ ābādhaṃ vīriyena paṭipaṇāmetvā jīvitasaṅkhāraṃ adhiṭṭhāya vihāsi.

Rồi Thế Tôn thoát khỏi cơn bệnh;
Atha kho bhagavato so ābādho paṭippassambhi.

thoát khỏi cơn bệnh không bao lâu, Ngài đi ra khỏi nhà bệnh, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn, trong bóng im, sau lưng ngôi nhà.
Atha kho bhagavā gilānā vuṭṭhito aciravuṭṭhito gelaññā vihārā nikkhamitvā vihārapacchāyāyaṃ paññatte āsane nisīdi.

Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ānanda bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā ānando yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, thật tốt khi thấy Thế Tôn được thoải mái;
“diṭṭho me, bhante, bhagavato phāsu;

Bạch Thế Tôn, con thấy Thế Tôn kham nhẫn!
diṭṭhaṃ, bhante, bhagavato khamanīyaṃ;

Bạch Thế Tôn, con thấy Thế Tôn chịu đựng!
diṭṭhaṃ, bhante, bhagavato yāpanīyaṃ.

Bạch Thế Tôn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy, mắt con mờ mịt không thấy rõ phương hướng. Pháp không được tỏ rõ cho con vì Thế Tôn bị bệnh.
Api ca me, bhante, madhurakajāto viya kāyo, disāpi me na pakkhāyanti, dhammāpi maṃ nappaṭibhanti bhagavato gelaññena.

Nhưng bạch Thế Tôn, con được chút an ủi rằng:
Api ca me, bhante, ahosi kācideva assāsamattā:

‘Thế Tôn sẽ không diệt độ, nếu Ngài không có lời di giáo lại cho chúng Tỷ-kheo’.”
‘na tāva bhagavā parinibbāyissati, na yāva bhagavā bhikkhusaṅghaṃ ārabbha kiñcideva udāharatī’”ti.

“Này Ānanda, chúng Tỷ-kheo còn mong mỏi gì nữa ở nơi Ta?
“Kiṃ pana dāni, ānanda, bhikkhusaṅgho mayi paccāsīsati?

Này Ānanda, Ta giảng pháp không có phân biệt trong ngoài.
Desito, ānanda, mayā dhammo anantaraṃ abāhiraṃ karitvā.

Vì, này Ānanda, đối với các pháp, Như Lai không bao giờ là vị Ðạo Sư còn nắm tay.
Natthānanda, tathāgatassa dhammesu ācariyamuṭṭhi.

Này Ānanda, những ai nghĩ rằng:
Yassa nūna, ānanda, evamassa:

‘Ta sẽ là vị dẫn đầu chúng Tỷ-kheo’, hay: ‘Chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta’, thời này Ānanda, người ấy sẽ có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo.
‘ahaṃ bhikkhusaṅghaṃ pariharissāmī’ti vā, ‘mamuddesiko bhikkhusaṅgho’ti vā, so nūna, ānanda, bhikkhusaṅghaṃ ārabbha kiñcideva udāhareyya.

Này Ānanda, Như Lai không có nghĩ rằng:
Tathāgatassa kho, ānanda, na evaṃ hoti:

‘Ta sẽ là vị dẫn đầu chúng Tỷ-kheo’, hay ‘Chúng Tỷ-kheo chịu sự giáo huấn của Ta’,
‘ahaṃ bhikkhusaṅghaṃ pariharissāmī’ti vā, ‘mamuddesiko bhikkhusaṅgho’ti vā.
so why should he bring something up regarding the Saṅgha?

Thời này Ānanda, làm sao Như Lai lại có lời di giáo cho chúng Tỷ-kheo?
Sa kiṃ, ānanda, tathāgato bhikkhusaṅghaṃ ārabbha kiñcideva udāharissati.

Này Ānanda, Ta nay đã già, bậc trưởng thượng, bậc trưởng lão, đã đạt đến đoạn cuối của đời.
Etarahi kho panāhaṃ, ānanda, jiṇṇo vuddho mahallako addhagato vayoanuppatto.

Ta đã đến tám mươi tuổi.
Āsītiko me vayo vattati.

Này Ānanda, như cỗ xe đã già mòn, sở dĩ còn chạy được là nhờ dây thừng chằng chịt.
Seyyathāpi, ānanda, jajjarasakaṭaṃ veḷamissakena yāpeti;

Cũng vậy, thân Như Lai được duy trì sự sống giống như chính nhờ dây thừng chằng chịt.
evameva kho, ānanda, veḷamissakena maññe tathāgatassa kāyo yāpeti.

Này Ānanda, chỉ trong khi Như Lai không tác ý đến tất cả tướng, với sự diệt trừ một số cảm thọ, chứng và an trú vô tướng tâm định, chính khi ấy, thân Như Lai được thoải mái.
Yasmiṃ, ānanda, samaye tathāgato sabbanimittānaṃ amanasikārā ekaccānaṃ vedanānaṃ nirodhā animittaṃ cetosamādhiṃ upasampajja viharati, phāsutaro, ānanda, tasmiṃ samaye tathāgatassa kāyo hoti.

Vậy này Ānanda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một điều gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.
Tasmātihānanda, attadīpā viharatha attasaraṇā anaññasaraṇā, dhammadīpā dhammasaraṇā anaññasaraṇā.

Và này Ānanda, thế nào là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?
Kathañcānanda, bhikkhu attadīpo viharati attasaraṇo anaññasaraṇo, dhammadīpo dhammasaraṇo anaññasaraṇo?

Này Ānanda, ở đây, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời;
Idhānanda, bhikkhu kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;

quán thọ trên các thọ ...
vedanāsu ...pe...

quán tâm trên tâm ...
citte ...pe...

quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời.
dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.

Này Ānanda, như vậy là Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa cho chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều gì khác.
Evaṃ kho, ānanda, bhikkhu attadīpo viharati attasaraṇo anaññasaraṇo, dhammadīpo dhammasaraṇo anaññasaraṇo.

Này Ānanda, những ai hiện nay hoặc sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một điều gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một gì khác; những vị ấy, này Ānanda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.”
Ye hi keci, ānanda, etarahi vā mamaccaye vā attadīpā viharissanti attasaraṇā anaññasaraṇā, dhammadīpā dhammasaraṇā anaññasaraṇā; tamatagge mete, ānanda, bhikkhū bhavissanti ye keci sikkhākāmā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt