Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 5.1

Tương Ưng Bộ 5.1
Saṃyutta Nikāya 5.1

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Āḷavikā
Āḷavikāsutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn ở Sāvatthi, Jetavana, tại vườn ông Anāthapiṇḍika.
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Tỷ-kheo-ni Āḷavikā, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthi để khất thực. Khất thực ở Sāvatthi xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni đi đến rừng Andha để tìm sự yên tĩnh viễn ly.
Atha kho āḷavikā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami vivekatthinī.

Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Āḷavikā run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn nàng từ bỏ yên tĩnh viễn ly, nên đi đến Tỷ-kheo-ni Āḷavikā và nói lên bài kệ:
Atha kho māro pāpimā āḷavikāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo yena āḷavikā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āḷavikaṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Ðời không có xuất ly,
Sống viễn ly làm gì?
Hãy trọn hưởng dục lạc,
Chớ hối hận về sau.”
“Natthi nissaraṇaṃ loke,
kiṃ vivekena kāhasi;
Bhuñjassu kāmaratiyo,
māhu pacchānutāpinī”ti.

Tỷ-kheo-ni Āḷavikā suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?”
Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī”ti?

Tỷ-kheo-ni Āḷavikā suy nghĩ: “Chính Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn làm ta từ bỏ yên tĩnh viễn ly nên đã nói lên bài kệ đó”.
Atha kho āḷavikāya bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo vivekamhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī”ti.

Tỷ-kheo-ni Āḷavikā biết được: “Ðấy là Ác ma”, liền nói lên bài kệ:
Atha kho āḷavikā bhikkhunī “māro ayaṃ pāpimā” iti viditvā māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi:

“Ở đời có xuất ly,
Nhờ trí tuệ, ta chứng.
Này Bà con phóng dật,
Biết sao được pháp ấy?
“Atthi nissaraṇaṃ loke,
paññāya me suphussitaṃ;
Pamattabandhu pāpima,
na tvaṃ jānāsi taṃ padaṃ.

Ái dục như kiếm thương,
Ðài chém đầu các uẩn.
Ðiều Ông gọi dục lạc,
Ta gọi là bất lạc.”
Sattisūlūpamā kāmā,
khandhāsaṃ adhikuṭṭanā;
Yaṃ tvaṃ kāmaratiṃ brūsi,
arati mayha sā ahū”ti.

Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Āḷavikā đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṃ āḷavikā bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt