Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 5.10

Tương Ưng Bộ 5.10
Saṃyutta Nikāya 5.10

Phẩm Tỷ Kheo Ni
Bhikkhunīvagga

Vajirā
Vajirāsutta

Ở tại Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṃ.

Tỷ-kheo-ni Vajirā vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Sāvatthi để khất thực. Khất thực xong, sau bữa ăn, trên con đường khất thực trở về, Tỷ-kheo-ni Vajirā đi đến rừng Andha để nghỉ ban ngày, đi sâu vào rừng Andha và ngồi dưới một gốc cây để thiền ban ngày.
Atha kho vajirā bhikkhunī pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisi. Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena andhavanaṃ tenupasaṅkami divāvihārāya. Andhavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.

Rồi Ác ma muốn làm Tỷ-kheo-ni Vajirā run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến nàng từ bỏ Thiền định, liền đi đến, nói lên bài kệ với Tỷ-kheo-ni Vajirā:
Atha kho māro pāpimā vajirāya bhikkhuniyā bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo yena vajirā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā vajiraṃ bhikkhuniṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Do ai, hữu tình này,
Ðược sanh, được tạo tác?
Người tạo hữu tình này,
Hiện nay ở tại đâu?
Từ đâu hữu tình sanh?
Ði đâu hữu tình diệt?”
“Kenāyaṃ pakato satto,
kuvaṃ sattassa kārako;
Kuvaṃ satto samuppanno,
kuvaṃ satto nirujjhatī”ti.

Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirā suy nghĩ: “Ai đã nói lên bài kệ này? Người hay không phải người?”
Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi: “ko nu khvāyaṃ manusso vā amanusso vā gāthaṃ bhāsatī”ti?

Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirā lại suy nghĩ: “Chính là Ác ma muốn làm ta run sợ, hoảng sợ, lông tóc dựng ngược, muốn khiến ta từ bỏ Thiền định, nên đã nói lên bài kệ này”.
Atha kho vajirāya bhikkhuniyā etadahosi: “māro kho ayaṃ pāpimā mama bhayaṃ chambhitattaṃ lomahaṃsaṃ uppādetukāmo samādhimhā cāvetukāmo gāthaṃ bhāsatī”ti.

Rồi Tỷ-kheo-ni Vajirā biết được: “Ðây là Ác ma”, liền trả lời Ác ma với bài kệ:
Atha kho vajirā bhikkhunī “māro ayaṃ pāpimā” iti viditvā, māraṃ pāpimantaṃ gāthāhi paccabhāsi:

“Sao Ông lại nói hoài,
Ðến hai chữ chúng sanh?
Phải chăng, này Ác ma,
Ông rơi vào tà kiến?
Ðây quy tụ các hành,
Chúng sanh được hình thành.
“Kiṃ nu sattoti paccesi,
māra diṭṭhigataṃ nu te;
Suddhasaṅkhārapuñjoyaṃ,
nayidha sattupalabbhati.

Như bộ phận quy tụ,
Tên xe được nói lên.
Cũng vậy, uẩn quy tụ,
Thông tục gọi chúng sanh.
Yathā hi aṅgasambhārā,
Evaṃ khandhesu santesu,
hoti sattoti sammuti.

Chỉ có khổ được sanh,
Khổ tồn tại, khổ diệt,
Ngoài khổ, không gì sanh,
Ngoài khổ không gì diệt.”
Dukkhameva hi sambhoti,
dukkhaṃ tiṭṭhati veti ca;
Nāññatra dukkhā sambhoti,
nāññaṃ dukkhā nirujjhatī”ti.

Rồi Ác ma biết được: “Tỷ-kheo-ni Vajirā đã biết ta”, nên buồn khổ, thất vọng, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho māro pāpimā “jānāti maṃ vajirā bhikkhunī”ti dukkhī dummano tatthevantaradhāyīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt