Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 51.11

Tương Ưng Bộ 51.11
Saṃyutta Nikāya 51.11

2. Phẩm Lầu Rung Chuyển
2. Pāsādakampanavagga

Trước hay Nhân
Pubbasutta

Tại Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.

“Trước khi Ta giác ngộ, này các Tỷ-kheo, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: “
“Pubbeva me, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi:

‘Do nhân gì, do duyên gì, tu tập như ý túc?’
‘ko nu kho hetu, ko paccayo iddhipādabhāvanāyā’ti?

Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:

‘Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành, với ý nghĩ:
‘idha bhikkhu chandasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti—

Như vậy, ý muốn (dục) của ta sẽ không quá thụ động và không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài.
iti me chando na ca atilīno bhavissati, na ca atippaggahito bhavissati, na ca ajjhattaṃ saṅkhitto bhavissati, na ca bahiddhā vikkhitto bhavissati.

Vị ấy an trú với tưởng trước sau đồng đẳng:
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṃ, yathā uddhaṃ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.
yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā.

Như vậy, với tâm rộng mở, với tâm không gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṃ cittaṃ bhāveti’.

Có người tu tập như ý túc câu hữu với tinh tấn định tinh cần hành, với ý nghĩ:
Vīriyasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti—

Như vậy, tinh tấn của ta sẽ không quá thụ động và cũng không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài.
iti me vīriyaṃ na ca atilīnaṃ bhavissati, na ca atippaggahitaṃ bhavissati, na ca ajjhattaṃ saṅkhittaṃ bhavissati, na ca bahiddhā vikkhittaṃ bhavissati.

Vị ấy an trú với tưởng trước sau đồng đẳng:
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṃ, yathā uddhaṃ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.
yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā.

Có người tu tập tập như ý túc câu hữu với tâm định tinh cần hành, với ý nghĩ:
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṃ cittaṃ bhāveti.

Như vậy, tâm của ta sẽ không quá thụ động và cũng không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài.
Cittasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti—
iti me cittaṃ na ca atilīnaṃ bhavissati, na ca atippaggahitaṃ bhavissati, na ca ajjhattaṃ saṅkhittaṃ bhavissati, na ca bahiddhā vikkhittaṃ bhavissati.

Vị ấy an trú với tưởng trước sau đồng đẳng:
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṃ, yathā uddhaṃ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy.
yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā.

Như vậy, với tâm rộng mở, không với tâm gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṃ cittaṃ bhāveti.

Có người tu tập như ý túc, câu hữu với tư duy định tinh cần hành, với ý nghĩ:
Vīmaṃsāsamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti—

Như vậy, tâm của ta sẽ không quá thụ động và cũng không quá hăng say, sẽ không co rút phía trong, sẽ không phân tán phía ngoài.
iti me vīmaṃsā na ca atilīnā bhavissati, na ca atippaggahitā bhavissati, na ca ajjhattaṃ saṅkhittā bhavissati, na ca bahiddhā vikkhittā bhavissati.

Vị ấy an trú với tưởng trước sau đồng đẳng:
Pacchāpuresaññī ca viharati—

Trước thế nào, thời sau như vậy; sau thế nào, thời trước như vậy.
yathā pure tathā pacchā, yathā pacchā tathā pure;

Dưới thế nào, thời trên như vậy; trên thế nào, thời dưới như vậy.
yathā adho tathā uddhaṃ, yathā uddhaṃ tathā adho;

Ban ngày thế nào, thời ban đêm như vậy; ban đêm thế nào, thời ban ngày như vậy”.
yathā divā tathā rattiṃ, yathā rattiṃ tathā divā.

Như vậy, với tâm rộng mở, không với tâm gò bó, với tâm chói sáng, vị ấy tu tập tâm.
Iti vivaṭena cetasā apariyonaddhena sappabhāsaṃ cittaṃ bhāveti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo chứng được nhiều loại thần thông: Một thân hiện ra nhiều thân; nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình, đi ngang qua tường, qua thành lũy, qua núi, không dính như đi ngang qua hư không; trồi lên, độn thổ, ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không nứt ra như đi trên đất liền; ngồi kiết-già, đi trên hư không như con chim, với bàn tay chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại thần lực, đại uy thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm thiên.
Evaṃ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṃ bahulīkatesu, anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti—ekopi hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi hutvā eko hoti; āvibhāvaṃ, tirobhāvaṃ; tirokuṭṭaṃ tiropākāraṃ tiropabbataṃ asajjamāno gacchati, seyyathāpi ākāse; pathaviyāpi ummujjanimujjaṃ karoti, seyyathāpi udake; udakepi abhijjamāne gacchati, seyyathāpi pathaviyaṃ; ākāsepi pallaṅkena kamati, seyyathāpi pakkhī sakuṇo; imepi candimasūriye evaṃmahiddhike evaṃmahānubhāve pāṇinā parimasati parimajjati; yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti.

Tu tập như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo chứng được thiên nhĩ thông thanh tịnh, siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, hoặc xa hoặc gần.
Evaṃ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṃ bahulīkatesu dibbāya sotadhātuyā visuddhāya atikkantamānusikāya ubho sadde suṇāti—dibbe ca mānuse ca, dūre santike cāti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo với tâm của mình rõ biết tâm của các chúng sanh, của những người khác.
Evaṃ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṃ bahulīkatesu, parasattānaṃ parapuggalānaṃ cetasā ceto paricca pajānāti.

Với tâm có tham, vị ấy rõ biết là ‘tâm có tham’;
Sarāgaṃ vā cittaṃ ‘sarāgaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm không có tham, rõ biết là ‘tâm không có tham’;
vītarāgaṃ vā cittaṃ ‘vītarāgaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm có sân, rõ biết là ‘tâm có sân’;
sadosaṃ vā cittaṃ ‘sadosaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm không có sân, rõ biết là ‘tâm không có sân’;
vītadosaṃ vā cittaṃ ‘vītadosaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm có si rõ biết là ‘tâm có si’;
samohaṃ vā cittaṃ ‘samohaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm không có si, rõ biết là ‘tâm không có si’;
vītamohaṃ vā cittaṃ ‘vītamohaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm co rút, rõ biết là ‘tâm co rút’;
saṅkhittaṃ vā cittaṃ ‘saṅkhittaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm tán loạn, rõ biết là ‘tâm tán loạn’;
vikkhittaṃ vā cittaṃ ‘vikkhittaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm đại hành, rõ biết là ‘tâm đại hành’;
mahaggataṃ vā cittaṃ ‘mahaggataṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm không đại hành, rõ biết là ‘tâm không đại hành’;
amahaggataṃ vā cittaṃ ‘amahaggataṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm hữu hạn, rõ biết là ‘tâm hữu hạn’;
sauttaraṃ vā cittaṃ ‘sauttaraṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm vô thượng, rõ biết là ‘tâm vô thượng’;
anuttaraṃ vā cittaṃ ‘anuttaraṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm Thiền định, rõ biết là ‘tâm Thiền định’;
samāhitaṃ vā cittaṃ ‘samāhitaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm không Thiền định, rõ biết là ‘tâm không Thiền định’;
asamāhitaṃ vā cittaṃ ‘asamāhitaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm không giải thoát, rõ biết là ‘tâm không giải thoát’;
vimuttaṃ vā cittaṃ ‘vimuttaṃ cittan’ti pajānāti;

với tâm giải thoát, rõ biết là ‘tâm giải thoát’.
avimuttaṃ vā cittaṃ ‘avimuttaṃ cittan’ti pajānāti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ: Như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: ‘Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, món ăn như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây”. Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ với các nét đại cương và các chi tiết.
Evaṃ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṃ bahulīkatesu, anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ—ekampi jātiṃ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattālīsampi jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi jātisatasahassampi anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe: ‘amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṅgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto amutra udapādiṃ; tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṅgotto evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto idhūpapanno’ti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh: Vị ấy rõ biết chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang ; người đẹp đẽ, kẻ thô xấu; người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Các vị này làm những ác hạnh về thân, ngữ hay ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những vị làm những thiện hạnh về thân, ngữ và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rõ rằng: “Chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ”.
Evaṃ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṃ bahulīkatesu, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti: ‘ime vata, bhonto, sattā kāyaduccaritena samannāgatā vacīduccaritena samannāgatā manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā micchādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime vā pana, bhonto, sattā kāyasucaritena samannāgatā vacīsucaritena samannāgatā manosucaritena samannāgatā ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā sammādiṭṭhikammasamādānā; te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ saggaṃ lokaṃ upapannā’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte, suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti.

Tu tập bốn như ý túc như vậy, làm cho sung mãn như vậy, Tỷ-kheo do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ và chứng đạt vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.”
Evaṃ bhāvitesu kho, bhikkhu, catūsu iddhipādesu evaṃ bahulīkatesu, āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt