Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 51.15

Tương Ưng Bộ 51.15
Saṃyutta Nikāya 51.15

2. Phẩm Lầu Rung Chuyển
2. Pāsādakampanavagga

Bà-La-Môn
Uṇṇābhabrāhmaṇasutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Tôn giả Ānanda trú ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita.
ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme.

Rồi Bà-la-môn Uṇṇābha đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ānanda những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Bà-la-môn Uṇṇābha thưa với Tôn giả Ānanda:
Atha kho uṇṇābho brāhmaṇo yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā ānandena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho uṇṇābho brāhmaṇo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Do mục đích gì, thưa Tôn giả Ānanda, Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama?”
“kimatthiyaṃ nu kho, bho ānanda, samaṇe gotame brahmacariyaṃ vussatī”ti?

“Với mục đích đoạn tận dục, này Bà-la-môn, Phạm hạnh được sống dưới Sa-môn Gotama.”
“Chandappahānatthaṃ kho, brāhmaṇa, bhagavati brahmacariyaṃ vussatī”ti.

“Có con đường gì, thưa Tôn giả Ānanda, có đạo lộ gì đưa đến đoạn tận lòng dục?”
“Atthi pana, bho ānanda, maggo atthi paṭipadā etassa chandassa pahānāyā”ti?

“Có con đường này, này Bà-la-môn, có đạo lộ này đưa đến đoạn tận lòng dục.”
“Atthi kho, brāhmaṇa, maggo, atthi paṭipadā etassa chandassa pahānāyā”ti.

“Con đường ấy là gì, thưa Tôn giả Ānanda? Ðạo lộ ấy là gì đưa đến đoạn tận lòng dục?”
“Katamo pana, bho ānanda, maggo katamā paṭipadā etassa chandassa pahānāyā”ti?

“Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo tu tập như ý túc câu hữu với dục định tinh cần hành.
“Idha, brāhmaṇa, bhikkhu chandasamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti,

tinh tấn định …
vīriyasamādhi ...pe...

tâm định …
cittasamādhi …

tu tập như ý túc câu hữu với tư duy định tinh cần hành.
vīmaṃsāsamādhippadhānasaṅkhārasamannāgataṃ iddhipādaṃ bhāveti—

Ðây là con đường, này Bà-la-môn, đây là đạo lộ đưa đến đoạn tận lòng dục.”
ayaṃ kho, brāhmaṇa, maggo ayaṃ paṭipadā etassa chandassa pahānāyā”ti.

“Sự thể là vậy, thưa Tôn giả Ānanda, đạo lộ này là vô tận không phải là hữu hạn.
“Evaṃ sante, bho ānanda, santakaṃ hoti no asantakaṃ.

Lấy dục mà trừ dục, sự kiện như vậy không xảy ra.”
Chandeneva chandaṃ pajahissatīti—netaṃ ṭhānaṃ vijjati”.

“Này Bà-la-môn, về vấn đề này, tôi sẽ hỏi Ông. Nếu Ông kham nhẫn, xin hãy trả lời.
“Tena hi, brāhmaṇa, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā taṃ byākareyyāsi.

Này Bà-la-môn, Ông nghĩ thế nào?
Taṃ kiṃ maññasi, brāhmaṇa,

Có phải trước có lòng dục (ý muốn) nơi Ông, thúc đẩy Ông: ‘Ta sẽ đi đến khu vườn’.
ahosi te pubbe chando ‘ārāmaṃ gamissāmī’ti?

Sau khi Ông đến khu vườn rồi, lòng dục ấy được tịnh chỉ?”
Tassa te ārāmagatassa yo tajjo chando so paṭippassaddho”ti?

“Thưa vâng, Tôn giả.”
“Evaṃ, bho”.

“Có phải trước có tinh tấn nơi Ông, thúc đẩy Ông: ‘Ta sẽ đi đến khu vườn’.
“Ahosi te pubbe vīriyaṃ ‘ārāmaṃ gamissāmī’ti?

Sau khi Ông đến khu vườn, tinh tấn ấy được tịnh chỉ?”
Tassa te ārāmagatassa yaṃ tajjaṃ vīriyaṃ taṃ paṭippassaddhan”ti?

“Thưa vâng, Tôn giả.”
“Evaṃ, bho”.

“Có phải trước có tâm nơi Ông, thúc đẩy Ông: ‘Ta sẽ đi đến khu vườn’.
“Ahosi te pubbe cittaṃ ‘ārāmaṃ gamissāmī’ti?

Sau khi Ông đến khu vườn, tâm ấy được tịnh chỉ?”
Tassa te ārāmagatassa yaṃ tajjaṃ cittaṃ taṃ paṭippassaddhan”ti?

“Thưa vâng, Tôn giả.”
“Evaṃ, bho”.

“Có phải trước có tư duy nơi Ông, thúc đẩy Ông: ‘Ta sẽ đi đến khu vườn’.
“Ahosi te pubbe vīmaṃsā ‘ārāmaṃ gamissāmī’ti?

Sau khi Ông đến khu vườn, tư duy ấy được tịnh chỉ?”
Tassa te ārāmagatassa yā tajjā vīmaṃsā sā paṭippassaddhā”ti?

“Thưa vâng, Tôn giả.”
“Evaṃ, bho”.

“Cũng vậy này Bày-la-môn, khi Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã đoạn tận, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã đoạn, chánh trí, giải thoát. Lòng dục mà vị ấy có trước để chứng được A-la-hán thì khi chứng được A-la-hán rồi, lòng dục ấy được tịnh chỉ.
“Evameva kho, brāhmaṇa, yo so bhikkhu arahaṃ khīṇāsavo vusitavā katakaraṇīyo ohitabhāro anuppattasadattho parikkhīṇabhavasaṃyojano sammadaññāvimutto, tassa yo pubbe chando ahosi arahattappattiyā, arahattappatte yo tajjo chando so paṭippassaddho;

Sự tinh tấn mà vị ấy có trước để chứng đạt A-la-hán, thì khi chứng được A-la-hán rồi, tinh tấn ấy được tịnh chỉ.
yaṃ pubbe vīriyaṃ ahosi arahattappattiyā, arahattappatte yaṃ tajjaṃ vīriyaṃ taṃ paṭippassaddhaṃ;

Tâm mà vị ấy có trước để chứng đạt A-la-hán, thì khi chứng được A-la-hán rồi, tâm ấy được tịnh chỉ.
yaṃ pubbe cittaṃ ahosi arahattappattiyā, arahattappatte yaṃ tajjaṃ cittaṃ taṃ paṭippassaddhaṃ;

Tư duy mà vị ấy có trước để chứng đạt A-la-hán, thì khi chứng được A-la-hán rồi, tư duy ấy được tịnh chỉ.
yā pubbe vīmaṃsā ahosi arahattappattiyā, arahattappatte yā tajjā vīmaṃsā sā paṭippassaddhā.

Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn,
Taṃ kiṃ maññasi, brāhmaṇa,

sự thể là vậy, thời một công việc có chấm dứt liên tục hay là một công việc không chấm dứt?”
iti evaṃ sante, santakaṃ vā hoti no asantakaṃ vā”ti?

“Thực vậy, thưa Tôn giả Ānanda, sự thể là vậy, một công việc có chấm dứt, không phải là một công việc không chấm dứt.
“Addhā, bho ānanda, evaṃ sante, santakaṃ hoti no asantakaṃ.

Thật vi diệu thay, Tôn giả Ānanda! Thật vi diệu thay, Tôn giả Ānanda!
Abhikkantaṃ, bho ānanda, abhikkantaṃ, bho ānanda.

Thưa Tôn giả Ānanda, ví như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Ānanda dùng nhiều phương tiện trình bày giải thích.
Seyyathāpi, bho ānanda, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhotā ānandena anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Thưa Tôn giả Ānanda, con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp và chúng Tỷ-kheo Tăng.
Esāhaṃ, bho ānanda, taṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Mong Tôn giả Ānanda nhận con làm đệ tử, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.”
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ ānando dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt