Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 55.6

Tương Ưng Bộ 55.6
Saṃyutta Nikāya 55.6

1. Phẩm Veḷudvāra
1. Veḷudvāravagga

Các Người Thợ Mộc
Thapatisutta

Nhân duyên ở Sāvatthī.
Sāvatthinidānaṃ.

Lúc bấy giờ nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn, nghĩ rằng:
Tena kho pana samayena sambahulā bhikkhū bhagavato cīvarakammaṃ karonti:

“Khi y xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi du hành”.
“niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṃ pakkamissatī”ti.

Lúc bấy giờ, Isidatta và Purāṇa, hai người thợ mộc trú ở Sādhuka vì một vài công việc phải làm.
Tena kho pana samayena isidattapurāṇā thapatayo sādhuke paṭivasanti kenacideva karaṇīyena.

Hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa nghe rằng:
Assosuṃ kho isidattapurāṇā thapatayo:

“nhiều Tỷ-kheo đang làm y cho Thế Tôn, ‘khi y làm xong, Thế Tôn sau ba tháng sẽ ra đi du hành’.”
“sambahulā kira bhikkhū bhagavato cīvarakammaṃ karonti: ‘niṭṭhitacīvaro bhagavā temāsaccayena cārikaṃ pakkamissatī’”ti.

Rồi hai thợ mộc Isidatta và Purāṇa đặt một người đứng ở giữa đường và dặn:
Atha kho isidattapurāṇā thapatayo magge purisaṃ ṭhapesuṃ:

“Này Ông, khi nào Ông thấy Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác đi đến, hãy báo tin cho chúng tôi biết.”
“yadā tvaṃ, ambho purisa, passeyyāsi bhagavantaṃ āgacchantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ, atha amhākaṃ āroceyyāsī”ti.

Sau khi đứng hai, ba ngày, người ấy thấy Thế Tôn từ xa đi đến, thấy vậy liền đi đến hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa và nói với họ:
Dvīhatīhaṃ ṭhito kho so puriso addasa bhagavantaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna yena isidattapurāṇā thapatayo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā isidattapurāṇe thapatayo etadavoca:

“Thưa Quý vị, bậc Thế Tôn ấy đã đến, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Nay là thời Quý vị nghĩ phải làm gì”.
“ayaṃ so, bhante, bhagavā āgacchati arahaṃ sammāsambuddho. Yassadāni kālaṃ maññathā”ti.

Rồi hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đi theo sau lưng Thế Tôn.
Atha kho isidattapurāṇā thapatayo yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā bhagavantaṃ piṭṭhito piṭṭhito anubandhiṃsu.

Rồi Thế Tôn đi xuống đường, đến một gốc cây; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho bhagavā maggā okkamma yena aññataraṃ rukkhamūlaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Isidatta và Purāṇa đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên.
Isidattapurāṇā thapatayo bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu.

Ngồi một bên, hai người thợ mộc Isidatta và Purāṇa bạch Thế Tôn:
Ekamantaṃ nisinnā kho te isidattapurāṇā thapatayo bhagavantaṃ etadavocuṃ:

“Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
“Yadā mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ đi khỏi Sāvatthī để du hành giữa dân chúng Kosala’; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta’.
‘sāvatthiyā kosalesu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti.

Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã đi khỏi Sāvatthī, đang du hành giữa dân chúng Kosala’; khi ấy, chúng con không được hoan hỷ, có sự ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã ở xa chúng ta’.
‘sāvatthiyā kosalesu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ đi khỏi dân chúng Kosala để du hành giữa dân chúng Malla’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta’.
‘kosalehi mallesu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti.

Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kosala, và đang du hành giữa dân chúng Malla’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã ở xa chúng ta’.
‘kosalehi mallesu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Malla để du hành giữa dân chúng Vajji’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta’;
‘mallehi vajjīsu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti.

Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Malla, và đang du hành giữa dân chúng Vajji’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã ở xa chúng ta’.
‘mallehi vajjīsu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Vajji để du hành giữa dân chúng Kāsi’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta’.
‘vajjīhi kāsīsu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti.

Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Vajji, và đang du hành giữa dân chúng Kāsi’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn đã ở xa chúng ta’.
‘vajjīhi kāsīsu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kāsi để du hành giữa dân chúng Magadha’; khi ấy, chúng con không hoan hỷ, có ưu buồn, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở xa chúng ta’.
‘kāsīhi māgadhe cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā bhavissatī’ti.

Và khi, bạch Thế Tôn, chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kāsi để du hành giữa dân chúng Magadha’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘kāsīhi māgadhe cārikaṃ pakkanto’ti, hoti anappakā no tasmiṃ samaye anattamanatā hoti anappakaṃ domanassaṃ: ‘dūre no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Magadha và đang du hành ở Kāsi’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn đã ở gần chúng ta’.
‘māgadhehi kāsīsu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti.

Khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Magadha và đang du hành ở Kāsi’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn đã ở gần chúng ta’.
‘māgadhehi kāsīsu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kāsi để du hành giữa dân chúng Vajji’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘kāsīhi vajjīsu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Kāsi để du hành giữa dân chúng Vajji’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘kāsīhi vajjīsu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Vajji để du hành giữa dân chúng Malla’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, nghĩ rằng: ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘vajjīhi mallesu cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Vajji, để du hành giữa dân chúng Malla’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘vajjīhi mallesu cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā’ti.

Khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Malla, để du hành giữa dân chúng Kosala’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘mallehi kosale cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn đã ra đi khỏi dân chúng Malla, để du hành giữa dân chúng Kosala’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘mallehi kosale cārikaṃ pakkanto’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā’ti.

Bạch Thế Tôn, khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn sẽ ra đi khỏi dân chúng Kosala, để du hành giữa dân chúng Sāvatthī’; khi ấy, chúng con được vui vẻ, có sự hoan hỷ, (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn sẽ ở gần chúng ta’.
‘kosalehi sāvatthiṃ cārikaṃ pakkamissatī’ti, hoti no tasmiṃ samaye attamanatā hoti somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā bhavissatī’ti.

Khi chúng con được nghe:
Yadā pana mayaṃ, bhante, bhagavantaṃ suṇāma:

‘Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Thắng Lâm, khu vườn ông Anāthapiṇḍika’; khi ấy vô lượng là sự vui vẻ của chúng con, vô lượng là hoan hỷ của chúng con (nghĩ rằng): ‘Thế Tôn đã ở gần chúng ta’.
‘sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme’ti, hoti anappakā no tasmiṃ samaye attamanatā hoti anappakaṃ somanassaṃ: ‘āsanne no bhagavā’”ti.

“Do vậy, này các người Thợ mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia!
“Tasmātiha, thapatayo, sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā.

Như vậy là vừa đủ, này các người Thợ mộc, để các Ông không có phóng dật.”
Alañca pana vo, thapatayo, appamādāyā”ti.

“Nhưng bạch Thế Tôn, ở đây chúng con có đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn.”
“Atthi kho no, bhante, etamhā sambādhā añño sambādho sambādhataro ceva sambādhasaṅkhātataro cā”ti.

“Thế nào là sự đàn áp khác, này các người Thợ mộc, còn áp bức hơn, còn bội phần hơn?”
“Katamo pana vo, thapatayo, etamhā sambādhā añño sambādho sambādhataro ceva sambādhasaṅkhātataro cā”ti?

“Ở đây, bạch Thế Tôn, khi vua Pasenadi nước Kosala muốn đi ra viếng thăm khu vườn, thời các con voi của vua Pasenadi nước Kosala cần phải được chúng con chuẩn bị và trang sức, và các cung phi khả ái, khả ý của vua Pasenadi nước Kosala cần phải có chúng con đặt ngồi một người ngồi trước, một người ngồi sau.
“Idha mayaṃ, bhante, yadā rājā pasenadi kosalo uyyānabhūmiṃ niyyātukāmo hoti, ye te rañño pasenadissa kosalassa nāgā opavayhā te kappetvā, yā tā rañño pasenadissa kosalassa pajāpatiyo piyā manāpā tā ekaṃ purato ekaṃ pacchato nisīdāpema.

Bạch Thế Tôn, mùi hương của các cung phi ấy thật là thơm ngọt như một hộp nước hoa vừa được mở ra, các cung phi của vua được ướp với mùi thơm như vậy.
Tāsaṃ kho pana, bhante, bhaginīnaṃ evarūpo gandho hoti, seyyathāpi nāma gandhakaraṇḍakassa tāvadeva vivariyamānassa, yathā taṃ rājakaññānaṃ gandhena vibhūsitānaṃ.

Lại nữa, bạch Thế Tôn, thân xúc các cung phi này thật là mềm dịu như một túm bông hoa hồng, vì họ được nuôi dưỡng rất an lạc.
Tāsaṃ kho pana, bhante, bhaginīnaṃ evarūpo kāyasamphasso hoti, seyyathāpi nāma tūlapicuno vā kappāsapicuno vā, yathā taṃ rājakaññānaṃ sukhedhitānaṃ.

Bạch Thế Tôn, trong lúc ấy, chúng con cần phải hộ trì cho voi, cần phải hộ trì cho các cung phi, cần phải hộ trì cho tự ngã nữa.
Tasmiṃ kho pana, bhante, samaye nāgopi rakkhitabbo hoti, tāpi bhaginiyo rakkhitabbā honti, attāpi rakkhitabbo hoti.

Dầu vậy, bạch Thế Tôn, chúng con không rõ biết sự khởi lên ái tâm đối với các cung phi ấy.
Na kho pana mayaṃ, bhante, abhijānāma tāsu bhaginīsu pāpakaṃ cittaṃ uppādetā.

Ðây, bạch Thế Tôn, là đàn áp khác, còn áp bức hơn, còn bội phần áp bức hơn!”
Ayaṃ kho no, bhante, etamhā sambādhā añño sambādho sambādhataro ceva sambādhasaṅkhātataro cā”ti.

“Do vậy, này các người Thợ mộc, chật hẹp là đời sống ở gia đình, đầy những bụi đời! Phóng khoáng giữa trời là đời sống người xuất gia!
“Tasmātiha, thapatayo, sambādho gharāvāso rajāpatho, abbhokāso pabbajjā.

Như vậy là vừa đủ, này các người Thợ mộc, để các Người không có phóng dật!
Alañca pana vo, thapatayo, appamādāya.

Này các người Thợ mộc, thành tựu bốn pháp, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
Catūhi kho, thapatayo, dhammehi samannāgato ariyasāvako sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo.

Thế nào là bốn?
Katamehi catūhi?

Ở đây, này các người Thợ mộc, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: ‘Ðây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’.
Idha, thapatayo, ariyasāvako buddhe aveccappasādena samannāgato hoti—itipi so bhagavā ...pe... satthā devamanussānaṃ buddho bhagavāti.

đối với Pháp …
Dhamme ...pe...

đối với chúng Tăng …
saṅghe ...pe...

Vị ấy sống ở gia đình, với tâm gột sạch cấu uế, xan tham. Vị ấy thường bố thí, bàn tay rộng mở, ưa thích từ bỏ, thích được nhờ cậy, thích thú chia sẻ vật được bố thí.
vigatamalamaccherena cetasā ajjhāgāraṃ vasati muttacāgo payatapāṇi vossaggarato yācayogo dānasaṃvibhāgarato.

Thành tựu bốn pháp này, này các người Thợ mộc, vị Thánh đệ tử là bậc Dự lưu, không còn bị thối đọa, quyết chắc chứng quả giác ngộ.
Imehi kho, thapatayo, catūhi dhammehi samannāgato ariyasāvako sotāpanno hoti avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo.

Này các người Thợ mộc, các Người thành tựu lòng tin bất động đối với đức Phật: ‘Ðây là bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Tuệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn’.
Tumhe kho, thapatayo, buddhe aveccappasādena samannāgatā—itipi so bhagavā ...pe... satthā devamanussānaṃ buddho bhagavāti.

đối với Pháp…
Dhamme ...pe...

đối với chúng Tăng …
saṅghe ...pe...

Trong gia đình các Người, phàm có vật được bố thí nào, tất cả đều được chia sẻ hoàn toàn và vô tư cho những vị có trì giới và các thiện nhân.
yaṃ kho pana kiñci kule deyyadhammaṃ sabbaṃ taṃ appaṭivibhattaṃ sīlavantehi kalyāṇadhammehi.

Các Ông nghĩ thế nào, này các người Thợ mộc, có bao nhiêu người ở tại Kosala có thể ngang bằng các Ông về phần chia vật bố thí?
Taṃ kiṃ maññatha, thapatayo, katividhā te kosalesu manussā ye tumhākaṃ samasamā, yadidaṃ—dānasaṃvibhāge”ti?

“Thật lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn! Thật khéo lợi đắc cho chúng con, bạch Thế Tôn, được Thế Tôn biết chúng con như vậy!”
“Lābhā no, bhante, suladdhaṃ no, bhante. Yesaṃ no bhagavā evaṃ pajānātī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt