Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 6.6

Tương Ưng Bộ 6.6
Saṃyutta Nikāya 6.6

1. Phẩm Thứ Nhất
1. Paṭhamavagga

Phóng Dật
Brahmalokasutta

Nhân duyên ở Sāvatthi.
Sāvatthinidānaṃ.

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đang Thiền tịnh độc cư vào buổi trưa.
Tena kho pana samayena bhagavā divāvihāragato hoti paṭisallīno.

Rồi hai Bích-chi Phạm thiên Subrahmā và Suddhavāsa đi đến Thế Tôn. Sau khi đến, họ đứng mỗi người dựa vào một cột cửa.
Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā paccekaṃ dvārabāhaṃ upanissāya aṭṭhaṃsu.

Rồi Bích-chi Phạm thiên Subrahmā nói với Bích-chi Phạm thiên Suddhavāsa:
Atha kho subrahmā paccekabrahmā suddhāvāsaṃ paccekabrahmānaṃ etadavoca:
But Subrahmā said to Suddhāvāsa,

—Này Tôn giả, nay không phải thời để hầu thăm Thế Tôn, Thế Tôn đang Thiền tịnh vào buổi trưa. Và có một Phạm thiên giới phồn vinh và thịnh vượng, tại đấy có Phạm thiên an trú, sống phóng dật. Này Tôn giả, hãy đi đến Phạm thiên giới ấy; sau khi đến hãy làm cho Phạm thiên ấy dao động.
“akālo kho tāva, mārisa, bhagavantaṃ payirupāsituṃ; divāvihāragato bhagavā paṭisallīno ca. Asuko ca brahmaloko iddho ceva phīto ca, brahmā ca tatra pamādavihāraṃ viharati. Āyāma, mārisa, yena so brahmaloko tenupasaṅkamissāma; upasaṅkamitvā taṃ brahmānaṃ saṃvejeyyāmā”ti.

—Thưa vâng, Thân hữu.
“Evaṃ, mārisā”ti

Bích-chi Phạm thiên Suddhavāsa vâng đáp Bích-chi Phạm thiên Subrahmā.
kho suddhāvāso paccekabrahmā subrahmuno paccekabrahmuno paccassosi.
replied Suddhāvāsa.

Rồi Bích-chi Phạm thiên Subrahmā và Bích-chi Phạm thiên Suddhavāsa, như một lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại cánh tay đang duỗi ra; cũng vậy, các vị này biến mất trước mặt Thế Tôn và hiện ra ở Phạm thiên giới ấy.
Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā—seyyathāpi nāma balavā puriso ...pe... evameva—bhagavato purato antarahitā tasmiṃ brahmaloke pāturahesuṃ.

Phạm thiên này thấy các Phạm thiên kia từ xa đi đến, thấy vậy, liền nói với các vị Phạm thiên kia:
Addasā kho so brahmā te brahmāno dūratova āgacchante. Disvāna te brahmāno etadavoca:

—Này chư Tôn giả, chư Tôn giả từ đâu đến?
“handa kuto nu tumhe, mārisā, āgacchathā”ti?

—Này Tôn giả, chúng tôi đến, sau khi được diện kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tôn giả, Tôn giả nên đi đến hầu thăm Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
“Āgatā kho mayaṃ, mārisa, amha tassa bhagavato santikā arahato sammāsambuddhassa. Gaccheyyāsi pana tvaṃ, mārisa, tassa bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassā”ti?

Khi được nói vậy, Phạm thiên này không để ý đến lời nói ấy, tự mình biến hình thành một ngàn thân, rồi nói với Bích-chi Phạm thiên Subrahmā:
Evaṃ vutto, kho so brahmā taṃ vacanaṃ anadhivāsento sahassakkhattuṃ attānaṃ abhinimminitvā subrahmānaṃ paccekabrahmānaṃ etadavoca:

—Này Tôn giả, Tôn giả có thấy thần lực, uy đức của ta như vậy không?
“passasi me no tvaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāvan”ti?

—Này Tôn giả, ta có thấy thần lực, uy đức của Tôn giả như vậy.
“Passāmi kho tyāhaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāvan”ti.

—Này Tôn giả, thần lực và uy đức của ta như vậy, thời ta còn phải đi hầu thăm một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác để làm gì?
“So khvāhaṃ, mārisa, evaṃmahiddhiko evaṃmahānubhāvo kassa aññassa samaṇassa vā brāhmaṇassa vā upaṭṭhānaṃ gamissāmī”ti?

Rồi Bích-chi Phạm thiên Subrahmā tự thân biến hình thành hai ngàn thân rồi nói với Phạm thiên kia:
Atha kho subrahmā paccekabrahmā dvisahassakkhattuṃ attānaṃ abhinimminitvā taṃ brahmānaṃ etadavoca:

—Này Tôn giả, Tôn giả có thấy thần lực, uy đức của ta như vậy không?
“passasi me no tvaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāvan”ti?

—Này Tôn giả, tôi có thấy thần lực, uy đức của Tôn giả như vậy.
“Passāmi kho tyāhaṃ, mārisa, evarūpaṃ iddhānubhāvan”ti.

—Này Tôn giả, Thế Tôn có đại thần lực và đại uy đức thắng hơn Ông và ta nữa. Này Tôn giả, Tôn giả hãy đi đến hầu thăm Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác.
“Tayā ca kho, mārisa, mayā ca sveva bhagavā mahiddhikataro ceva mahānubhāvataro ca. Gaccheyyāsi tvaṃ, mārisa, tassa bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassā”ti?

Rồi Phạm thiên kia nói lên bài kệ với Bích-chi Phạm thiên Subrahmā:
Atha kho so brahmā subrahmānaṃ paccekabrahmānaṃ gāthāya ajjhabhāsi:

“Ba hàng kim sí điểu,
Và bốn hàng thiên nga,
Năm hàng trăm hổ cái
Rực rỡ và sáng chói,
Cung điện này chiếu diệu,
Bừng sáng cả Bắc phương.”
“Tayo supaṇṇā caturo ca haṃsā,
Byagghīnisā pañcasatā ca jhāyino;
Tayidaṃ vimānaṃ jalate ca brahme,
Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāyan”ti.

(Bích-chi Phạm thiên Subrahmā):

“Dầu cho cung điện Ông,
Rực rỡ và chói sáng,
Chiếu diệu cả vòm trời,
Bừng sáng cả Bắc phương.
Bậc Thiện Thệ sáng suốt,
Thấy nguy hiểm trong sắc,
Luôn luôn phải biến hoại,
Nên không ái lạc sắc.”
“Kiñcāpi te taṃ jalate vimānaṃ,
Obhāsayaṃ uttarassaṃ disāyaṃ;
Rūpe raṇaṃ disvā sadā pavedhitaṃ,
Tasmā na rūpe ramatī sumedho”ti.

—Rồi Bích-chi Phạm thiên Subrahmā và Bích-chi Phạm thiên Suddhavāsa; sau khi làm vị Phạm thiên ấy dao động, liền biến mất tại chỗ ấy.
Atha kho subrahmā ca paccekabrahmā suddhāvāso ca paccekabrahmā taṃ brahmānaṃ saṃvejetvā tatthevantaradhāyiṃsu.

Và Phạm thiên ấy, sau một thời gian đi đến hầu thăm Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Chánh Giác.
Agamāsi ca kho so brahmā aparena samayena bhagavato upaṭṭhānaṃ arahato sammāsambuddhassāti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt