Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Saṃyutta Nikāya - Tương Ưng Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tương Ưng Bộ 9.14

Tương Ưng Bộ 9.14
Saṃyutta Nikāya 9.14

1. Phẩm Rừng
1. Vanavagga

Sen Hồng hay Sen Trắng
Gandhatthenasutta

Một thời, một Tỷ-kheo trú giữa dân chúng Kosala, tại một khu rừng.
Ekaṃ samayaṃ aññataro bhikkhu kosalesu viharati aññatarasmiṃ vanasaṇḍe.

Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo ấy ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, đi xuống hồ nước và ngửi bông sen hồng.
Tena kho pana samayena so bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto pokkharaṇiṃ ogāhetvā padumaṃ upasiṅghati.

Rồi một vị Thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỷ-kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác, liền đi đến Tỷ-kheo. Sau khi đến, vị Thiên ấy liền nói lên những bài kệ với Tỷ-kheo:
Atha kho yā tasmiṃ vanasaṇḍe adhivatthā devatā tassa bhikkhuno anukampikā atthakāmā taṃ bhikkhuṃ saṃvejetukāmā yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ gāthāya ajjhabhāsi:

Hoa này từ nước sanh,
Không cho, Ông ngửi trộm.
Như vậy một loại trộm,
Ta gọi Ông trộm hương,
Này thân hữu của ta.
“Yametaṃ vārijaṃ pupphaṃ,
adinnaṃ upasiṅghasi;
Ekaṅgametaṃ theyyānaṃ,
gandhatthenosi mārisā”ti.

(Vị Tỷ-kheo):

Không lấy đi, không bẻ,
Ðứng xa, ta ngửi hoa,
Vậy do hình tướng gì,
Ðược gọi là “trộm hương”?
“Na harāmi na bhañjāmi,
ārā siṅghāmi vārijaṃ;
Atha kena nu vaṇṇena,
gandhatthenoti vuccati.

Ai đào rễ củ sen,
Ăn dùng các loại sen.
Do các hành động ấy,
Sao không gọi trộm hương?
Yvāyaṃ bhisāni khanati,
puṇḍarīkāni bhañjati;
Evaṃ ākiṇṇakammanto,
kasmā eso na vuccatī”ti.

(Vị Thiên):

Người ty tiện độc ác,
Như vải nhớp vú em,
Với hạng người như vậy,
Lời ta không liên hệ.
Nhưng chính thật cho Ông,
Chính lời ta tương ưng
“Ākiṇṇaluddo puriso,
dhāticelaṃva makkhito;
Tasmiṃ me vacanaṃ natthi,
tvañcārahāmi vattave.

Với người không cấu uế,
Thường hướng cầu thanh tịnh.
Với kẻ ác nhìn thấy,
Nhỏ như đầu sợi lông,
Vị ấy xem thật lớn,
Như đầu mây trên trời.
Anaṅgaṇassa posassa,
niccaṃ sucigavesino;
Vālaggamattaṃ pāpassa,
abbhāmattaṃva khāyatī”ti.

(Vị Tỷ-kheo):

Thật sự này Dạ-xoa,
Ông biết ta, thương ta,
Hãy nói lại với ta,
Khi thấy ta như vậy.
“Addhā maṃ yakkha jānāsi,
atho me anukampasi;
Punapi yakkha vajjāsi,
yadā passasi edisan”ti.

(Vị Thiên):

“Ta không tuỳ thuộc Ông,
Không phải người hầu cận,
Này Tỷ-kheo nên biết,
Con đường tới thiện thú”.
“Neva taṃ upajīvāma,
napi te bhatakāmhase;
Tvameva bhikkhu jāneyya,
yena gaccheyya suggatin”ti.

Vị Tỷ-kheo ấy được vị Thiên ấy cảnh giác, tâm hết sức xúc động.
Atha kho so bhikkhu tāya devatāya saṃvejito saṃvegamāpādīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt