Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Khuddaka Nikāya - Tiểu Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Udāna 6.6

Tiểu Bộ Kinh
Khuddaka Nikāya

Kinh Phật Tự Thuyết
Udāna

Ud 6.6
Tatiyanānātitthiyasutta

Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika.
Evaṃ me sutaṃ - ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa-môn, Bà-la-môn, các du sĩ trú ở Sàvatthi. Họ có quan điểm khác nhau. Họ có kham nhẫn khác nhau. Họ có sở thích khác nhau. Họ y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau.
Tena kho pana samayena sambahulā nānātitthiyasamaṇabrāhmaṇaparibbājakā sāvatthiyaṃ paṭivasanti nānādiṭṭhikā nānākhantikā nānārucikā nānādiṭṭhinissayanissitā.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn, luận thuyết như sau: "Tự ngã và thế giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sassato attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “asassato attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sassato ca asassato ca attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, có quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới là không thường còn và không vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “neva sassato nāsassato attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới do tự mình tạo ra, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sayaṅkato attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới do người khác tạo ra, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “paraṅkato attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới do tự mình và người khác tạo ra, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sayaṃkato ca paraṃkato ca attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Tự ngã và thế giới không do tự mình tạo ra, không do người khác tạo ra, do vô nhân sanh, tự nhiên, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “asayaṅkāro aparaṅkāro adhiccasamuppanno attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sassataṃ sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới là vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “asassataṃ sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới là thường còn và vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sassatañca asassatañca sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới là không thường còn và không vô thường, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “neva sassataṃ nāsassataṃ sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới do tự mình tạo ra, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sayaṅkataṃ sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới do người khác tạo ra, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “paraṅkataṃ sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới là do tự mình và người khác tạo ra, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “sayaṃkatañca paraṃkatañca sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Một số Bà-la-môn, Bà-la-môn luận thuyết như sau, quan điểm như sau: "Lạc khổ, tự ngã và thế giới là không tự mình tạo ra, không người khác tạo ra, do vô nhân sanh, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng".
Santi paneke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: “asayaṅkāraṃ aparaṅkāraṃ adhiccasamuppannaṃ sukhadukkhaṃ attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan”ti.

Họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: "Như thế này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp".
Te bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi vitudantā viharanti: “ediso dhammo, nediso dhammo; nediso dhammo, ediso dhammo”ti.

Rồi nhiều Tỷ-kheo vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi vào Sàvatthi để khất thực.
Atha kho sambahulā bhikkhū pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya sāvatthiṃ piṇḍāya pāvisiṃsu.

Khất thực ở Sàvatthi xong sau buổi ăn, khi đi khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Sāvatthiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:

- Ở đây, bạch Thế Tôn, nhiều ngoại đạo sai khác, các Sa-môn, Bà-la-môn, các du sĩ trú ở Sàvatthi. Họ có quan điểm khác nhau. Họ có kham nhẫn khác nhau. Họ có sở thích khác nhau. Họ y cứ nương tựa vào quan điểm khác nhau.
“Idha, bhante, sambahulā nānātitthiyasamaṇabrāhmaṇaparibbājakā sāvatthiyaṃ paṭivasanti nānādiṭṭhikā nānākhantikā nānārucikā nānādiṭṭhinissayanissitā.

Một số Sa-môn, Bà-la-môn, luận thuyết như sau: "Tự ngã và thế giới là thường còn, chỉ đây là sự thật, ngoài ra là hư vọng" ... Họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: "Như thế này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp".
Santeke samaṇabrāhmaṇā evaṃvādino evaṃdiṭṭhino: ‘sassato attā ca loko ca, idameva saccaṃ moghamaññan’ti … pe … te bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi vitudantā viharanti: ‘ediso dhammo, nediso dhammo; nediso dhammo, ediso dhammo’”ti.

- Này các Tỷ-kheo, các du sĩ ngoại đạo là những người mù, không có mắt, không biết mục đích, không biết phải mục đích, không biết pháp, không biết phi pháp.
“Aññatitthiyā, bhikkhave, paribbājakā andhā acakkhukā; atthaṃ na jānanti anatthaṃ na jānanti, dhammaṃ na jānanti adhammaṃ na jānanti.

Do họ không biết mục đích, do họ không biết không phải mục đích, do không biết pháp, do không biết phi pháp, họ sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau bằng binh khí miệng lưỡi: "Như thế này là pháp. Như thế này là pháp. Như thế này không phải pháp. Như thế này không phải pháp".
Te atthaṃ ajānantā anatthaṃ ajānantā, dhammaṃ ajānantā adhammaṃ ajānantā bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi vitudantā viharanti: ‘ediso dhammo, nediso dhammo; nediso dhammo, ediso dhammo’”ti.

Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng:
Atha kho bhagavā etamatthaṃ viditvā tāyaṃ velāyaṃ imaṃ udānaṃ udānesi:

6. Có người ở đời này,
Chấp người làm là ta,
Trói buộc với tư tưởng,
Người làm là người khác,
Họ không biết sự này,
Họ thấy là mũi tên,
“Ahaṅkārapasutāyaṃ pajā,
Paraṅkārūpasaṃhitā;
Etadeke nābbhaññaṃsu,
Na naṃ sallanti addasuṃ.

Ai nhìn mũi tên này,
Với thận trọng cần thiết,
Người ấy không còn chấp,
"Người làm chính là ta",
Người ấy cũng không chấp,
"Người làm là người khác",
Etañca sallaṃ paṭikacca passato,
Ahaṃ karomīti na tassa hoti;
Paro karotīti na tassa hoti.

Loài người ở đời này,
Bị kiêu mạn khiếp phục,
Bị cột bởi kiêu mạn,
Bị trói bởi kiêu mạn,
Trong các loài chủ thuyết,
Họ cạnh tranh, luận tranh,
Họ không thể vượt qua,
Luân chuyển trong sanh tử.
Mānupetā ayaṃ pajā,
Mānaganthā mānavinibaddhā;
Diṭṭhīsu sārambhakathā,
Saṃsāraṃ nātivattatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt