Tăng Chi Bộ 10.44
Aṅguttara Nikāya 10.44
5. Phẩm Mắng Nhiếc
5. Akkosavagga
Tại Kusanara
Kusinārasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Kusinārā, trong khóm rừng Baliharana. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā kusinārāyaṃ viharati baliharaṇe vanasaṇḍe. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“Này các Tỷ-kheo!”
“bhikkhavo”ti.
“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, Thế Tôn nói như sau:
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā etadavoca:
“2. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội muốn buộc tội người khác sau khi quán sát nội trú thân năm pháp, sau khi khiến năm pháp an trú nội thân, rồi hãy buộc tội người khác.
“Codakena, bhikkhave, bhikkhunā paraṃ codetukāmena pañca dhamme ajjhattaṃ paccavekkhitvā pañca dhamme ajjhattaṃ upaṭṭhāpetvā paro codetabbo.
Thế nào là năm pháp cần phải quán sát nội thân?
Katame pañca dhammā ajjhattaṃ paccavekkhitabbā?
3. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội, trong khi buộc tội người khác, cần quán sát như sau:
Codakena, bhikkhave, bhikkhunā paraṃ codetukāmena evaṃ paccavekkhitabbaṃ:
‘Ta có thân hành thanh tịnh hay không? Ta có thành tựu thân hành thanh tịnh không có sứt mẻ, không có uế nhiễm hay không? Ta có pháp này hay không có?”
‘parisuddhakāyasamācāro nu khomhi, parisuddhenamhi kāyasamācārena samannāgato acchiddena appaṭimaṃsena. Saṃvijjati nu kho me eso dhammo udāhu no’ti?
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo thân hành không có thanh tịnh, không thành tựu thân hành thanh tịnh, có sứt mẻ, có uế nhiễm, có người sẽ nói về vị ấy như sau:
No ce, bhikkhave, bhikkhu parisuddhakāyasamācāro hoti parisuddhena kāyasamācārena samannāgato acchiddena appaṭimaṃsena, tassa bhavanti vattāro:
‘Tôn giả hãy học tập về thân’. Như vậy các Tỷ-kheo nói với vị ấy.
‘iṅgha tāva āyasmā kāyikaṃ sikkhassū’ti, itissa bhavanti vattāro.
4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội, muốn buộc tội người khác, cần phải quán sát như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, codakena bhikkhunā paraṃ codetukāmena evaṃ paccavekkhitabbaṃ:
‘Ta có khẩu hành thanh tịnh hay không? Ta có thành tựu khẩu hành thanh tịnh không có sứt mẻ, không có uế nhiễm hay không? Ta có pháp này hay không có?
‘parisuddhavacīsamācāro nu khomhi, parisuddhenamhi vacīsamācārena samannāgato acchiddena appaṭimaṃsena. Saṃvijjati nu kho me eso dhammo udāhu no’ti?
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo khẩu hành không có thanh tịnh, không có thành tựu khẩu hành thanh tịnh, không có sứt mẻ, không có uế nhiễm, có người sẽ nói về vị ấy như sau:
No ce, bhikkhave, bhikkhu parisuddhavacīsamācāro hoti parisuddhena vacīsamācārena samannāgato acchiddena appaṭimaṃsena, tassa bhavanti vattāro:
Tôn giả hãy học tập về lời’. Như vậy, các Tỷ-kheo nói với vị ấy.
‘iṅgha tāva āyasmā vācasikaṃ sikkhassū’ti, itissa bhavanti vattāro.
5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội, muốn buộc tội người khác, cần phải quán sát như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, codakena bhikkhunā paraṃ codetukāmena evaṃ paccavekkhitabbaṃ:
‘Ta có an lập từ tâm, không sân hận đối với các đồng Phạm hạnh hay không? Trong ta có pháp ấy hay không có?
‘mettaṃ nu kho me cittaṃ paccupaṭṭhitaṃ sabrahmacārīsu anāghātaṃ. Saṃvijjati nu kho me eso dhammo udāhu no’ti?
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không an lập từ tâm, sân hận đối với các đồng Phạm hạnh, có người sẽ nói về vị ấy như sau:
No ce, bhikkhave, bhikkhuno mettaṃ cittaṃ paccupaṭṭhitaṃ hoti sabrahmacārīsu anāghātaṃ, tassa bhavanti vattāro:
‘Tôn giả hãy an lập từ tâm đối với các vị đồng Phạm hạnh’. Như vậy, các Tỷ-kheo nói với vị ấy.
‘iṅgha tāva āyasmā sabrahmacārīsu mettaṃ cittaṃ upaṭṭhāpehī’ti, itissa bhavanti vattāro.
6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội, muốn buộc tội người khác, cần phải quán sát như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, codakena bhikkhunā paraṃ codetukāmena evaṃ paccavekkhitabbaṃ:
‘Ta có phải là người nghe nhiều, thọ trì điều đã nghe, cất giữ điều đã nghe hay không? Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh, những pháp ấy, ta có nghe nhiều, có thọ trì, có tụng đọc bằng lời, có suy tư với ý, được khéo thể nhập với chánh kiến không?
‘bahussuto nu khomhi sutadharo sutasannicayo, ye te dhammā ādikalyāṇā majjhekalyāṇā pariyosānakalyāṇā sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ abhivadanti, tathārūpā me dhammā bahussutā honti dhātā vacasā paricitā manasānupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā.
Pháp ấy có nơi ta hay không?’
Saṃvijjati nu kho me eso dhammo udāhu no’ti?
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không phải là vị nghe nhiều, thọ trì điều đã nghe, cất giữ điều đã nghe. Những pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn, đề cao đời sống Phạm hạnh hoàn toàn viên mãn thanh tịnh; các pháp ấy, vị ấy không có nghe nhiều, không có thọ trì, không có tụng đọc bằng lời, không có suy tư với ý, không khéo thể nhập với chánh kiến, có người sẽ nói về vị ấy như sau:
No ce, bhikkhave, bhikkhu bahussuto hoti sutadharo sutasannicayo, ye te dhammā ādikalyāṇā majjhekalyāṇā pariyosānakalyāṇā sātthaṃ sabyañjanaṃ kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ abhivadanti, tathārūpāssa dhammā bahussutā honti dhātā vacasā paricitā manasānupekkhitā diṭṭhiyā suppaṭividdhā, tassa bhavanti vattāro:
“Tôn giả hãy học tập về Kinh Tạng đi”. Như vậy, các Tỷ-kheo nói với vị ấy.
‘iṅgha tāva āyasmā āgamaṃ pariyāpuṇassū’ti, itissa bhavanti vattāro.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo buộc tội, muốn buộc tội người, hãy quán sát như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, codakena bhikkhunā paraṃ codetukāmena evaṃ paccavekkhitabbaṃ:
‘Cả hai bộ giới bổn Pātimokkha, ta có khéo truyền đạt một cách rộng rãi, khéo phân tích, khéo thông hiểu, khéo quyết định theo kinh, theo chi tiết hay không?
‘ubhayāni kho pana me pātimokkhāni vitthārena svāgatāni honti suvibhattāni suppavattīni suvinicchitāni suttaso anubyañjanaso.
Pháp ấy có nơi ta hay không?’
Saṃvijjati nu kho me eso dhammo udāhu no’ti?
Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo không khéo truyền đạt một cách rộng rãi về hai bộ giới bổn Pàtimokkha, không khéo phân tích, khéo thông hiểu, khéo quyết định theo kinh, theo chi tiết thì: ‘Thưa Tôn giả, vấn đề này được Thế Tôn nói tại chỗ nào?’, được hỏi như vậy, vị ấy không có thể trả lời.
No ce, bhikkhave, bhikkhuno ubhayāni pātimokkhāni vitthārena svāgatāni honti suvibhattāni suppavattīni suvinicchitāni suttaso anubyañjanaso, ‘idaṃ panāyasmā, kattha vuttaṃ bhagavatā’ti, iti puṭṭho na sampāyissati.
Người ta sẽ nói về vị ấy như sau: ‘Mong rằng Tôn giả hãy học tập về luật’. Như vậy, có người sẽ nói với vị ấy.
Tassa bhavanti vattāro: ‘iṅgha tāva āyasmā vinayaṃ sikkhassū’ti, itissa bhavanti vattāro.
Năm pháp này, cần phải tự quán sát về nội thân.
Ime pañca dhammā ajjhattaṃ paccavekkhitabbā.
8. Năm pháp nào cần phải an trú nội tâm?
Katame pañca dhammā ajjhattaṃ upaṭṭhāpetabbā?
‘9. Ta nói đúng thời, không phải phi thời;
‘Kālena vakkhāmi, no akālena;
ta nói đúng sự thật, không phải không đúng sự thật;
bhūtena vakkhāmi, no abhūtena;
ta nói lời nhu hòa, không phải nói lời thô bạo;
saṇhena vakkhāmi, no pharusena;
ta nói lời liên hệ đến lợi ích, không phải lời không liên hệ đến vô ích;
atthasaṃhitena vakkhāmi, no anatthasaṃhitena;
ta nói với tâm từ bi, không nói với tâm sân hận.’
mettacitto vakkhāmi, no dosantaro’ti—
Năm pháp này cần phải an trú nội tâm.
ime pañca dhammā ajjhattaṃ upaṭṭhāpetabbā.
Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo muốn buộc tội người khác, sau khi quán sát nội tâm về năm pháp này, sau khi an trú nội tâm về năm pháp này, hãy buộc tội người khác.”
Codakena, bhikkhave, bhikkhunā paraṃ codetukāmena ime pañca dhamme ajjhattaṃ paccavekkhitvā ime pañca dhamme ajjhattaṃ upaṭṭhāpetvā paro codetabbo”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt