Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.92

Tăng Chi Bộ 10.92
Aṅguttara Nikāya 10.92

10. Phẩm Nam Cư Sĩ (hay Upāli)
10. Upālivagga

Sợ Hãi Và Hận Thù
Bhayasutta

1. Bấy giờ có Gia chủ Anāthapiṇḍika đi đến Thế Tôn, … Thế Tôn nói với Gia chủ Anāthapiṇḍika đang ngồi xuống một bên:
Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ bhagavā etadavoca:

“2. Này Gia chủ, khi nào vị Thánh đệ tử làm cho lắng dịu năm sợ hãi hận thù, thành tựu bốn chi phần Dự lưu, khéo thấy, khéo thể nhập Thánh lý với trí tuệ; nếu vị ấy muốn, có thể tự trả lời với mình rằng:
“Yato, kho, gahapati, ariyasāvakassa pañca bhayāni verāni vūpasantāni honti, catūhi ca sotāpattiyaṅgehi samannāgato hoti, ariyo cassa ñāyo paññāya sudiṭṭho hoti suppaṭividdho, so ākaṅkhamāno attanāva attānaṃ byākareyya:

‘Ta đã đoạn tận địa ngục; ta đã đoạn tận bàng sanh; ta đã đoạn tận ngạ quỷ; Ta đã đoạn tận các cõi dữ, ác thú, đọa xứ; ta đã chứng Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc chứng đạt cứu cánh giác ngộ.’
‘khīṇanirayomhi khīṇatiracchānayoni khīṇapettivisayo khīṇāpāyaduggativinipāto. Sotāpannohamasmi avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo’ti.

Thế nào là năm sợ hãi hận thù được làm cho lắng dịu?
Katamāni pañca bhayāni verāni vūpasantāni honti?

3. Này Gia chủ, sát sanh, do duyên sát sanh tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến tâm cảm thọ khổ ưu. Người từ bỏ sát sanh, không tạo ra sợ hãi hận thù trong hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong tương lai, không khiến tâm cảm thọ khổ ưu.
Yaṃ, gahapati, pāṇātipātī pāṇātipātapaccayā diṭṭhadhammikampi bhayaṃ veraṃ pasavati samparāyikampi bhayaṃ veraṃ pasavati cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti, pāṇātipātā paṭivirato neva diṭṭhadhammikampi bhayaṃ veraṃ pasavati na samparāyikampi bhayaṃ veraṃ pasavati na cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti.

Người từ bỏ sát sanh, làm lắng dịu sợ hãi hận thù này.
Pāṇātipātā paṭiviratassa evaṃ taṃ bhayaṃ veraṃ vūpasantaṃ hoti.

4. Này Gia chủ, lấy của không cho …
Yaṃ, gahapati, adinnādāyī ...pe...

tà hạnh trong các dục …
kāmesumicchācārī …

nói láo …
musāvādī …

đắm say trong rượu men, rượu nấu; do duyên đắm say trong rượu men, rượu nấu, tạo ra sợ hãi hận thù ngay trong hiện tại, tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, khiến cảm thọ khổ ưu về tâm. Người từ bỏ đắm say trong rượu men, rượu nấu, không tạo ra sợ hãi thù hận ngay hiện tại, không tạo ra sợ hãi hận thù trong tương lai, không khiến cảm thọ khổ ưu về tâm.
surāmerayamajjapamādaṭṭhāyī surāmerayamajjapamādaṭṭhānapaccayā diṭṭhadhammikampi bhayaṃ veraṃ pasavati samparāyikampi bhayaṃ veraṃ pasavati cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti, surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭivirato neva diṭṭhadhammikampi bhayaṃ veraṃ pasavati na samparāyikampi bhayaṃ veraṃ pasavati na cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti.

Với người từ bỏ đắm say rượu men, rượu nấu, như vậy sợ hãi hận thù này được lắng dịu.
Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā paṭiviratassa evaṃ taṃ bhayaṃ veraṃ vūpasantaṃ hoti.

Năm sợ hãi hận thù này được lắng dịu.
Imāni pañca bhayāni verāni vūpasantāni honti.

Thế nào là thành tựu bốn Dự lưu phần?
Katamehi catūhi sotāpattiyaṅgehi samannāgato hoti?

5. Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử thành tựu tịnh tín bất động đối với đức Phật:
Idha, gahapati, ariyasāvako buddhe aveccappasādena samannāgato hoti:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc Ứng Cúng, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā ...pe... buddho bhagavā’ti;

Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với Pháp:
dhamme aveccappasādena samannāgato hoti:

‘Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự mình giác hiểu.’
‘svākkhāto bhagavatā dhammo sandiṭṭhiko akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti;

Vị ấy thành tựu tịnh tín bất động đối với chúng Tăng:
saṅghe aveccappasādena samannāgato hoti:

‘Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Trực hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Ứng lý hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn; Chơn chánh hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn. Tức là bốn đôi tám chúng. Chúng đệ tử Thế Tôn đáng được cung kính, đáng được tôn trọng, đáng được đảnh lễ, đáng được chắp tay, là phước điền vô thượng ở đời.’
‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ujuppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, ñāyappaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, sāmīcippaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa bhagavato sāvakasaṅgho āhuneyyo pāhuneyyo dakkhiṇeyyo añjalikaraṇīyo anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti;

Vị ấy thành tựu với những giới được các bậc Thánh ái kính, không bị phá hủy, không bị bể vụn, không bị điểm chấm, không bị uế nhiễm, đưa đến giải thoát, được bậc trí tán thán, không bị chấp trước, đưa đến Thiền định.
ariyakantehi sīlehi samannāgato hoti ‘akhaṇḍehi acchiddehi asabalehi akammāsehi bhujissehi viññuppasatthehi aparāmaṭṭhehi samādhisaṃvattanikehi’.

Ðây là thành tựu bốn chi phần Dự lưu này.
Imehi catūhi sotāpattiyaṅgehi samannāgato hoti.

Thế nào là Thánh lý được khéo thấy, khéo thể nhập với trí tuệ?
Katamo cassa ariyo ñāyo paññāya sudiṭṭho hoti suppaṭividdho?

6. Ở đây, này Gia chủ, vị Thánh đệ tử quán sát như sau:
Idha, gahapati, ariyasāvako iti paṭisañcikkhati:

‘Do cái này có, cái kia có. Do cái này sanh, cái kia sanh.
‘iti imasmiṃ sati idaṃ hoti; imassuppādā idaṃ uppajjati;

Do cái này không có, cái kia không có. Do cái này diệt, cái kia diệt. Tức là:
imasmiṃ asati idaṃ na hoti; imassa nirodhā idaṃ nirujjhati, yadidaṃ—

do duyên vô minh, có các hành.
avijjāpaccayā saṅkhārā,

Do duyên các hành có thức.
saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ,

Do duyên thức có danh sắc.
viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ,

Do duyên danh sắc có sáu nhập.
nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ,

Do duyên sáu nhập có xúc.
saḷāyatanapaccayā phasso,

Do duyên xúc có thọ.
phassapaccayā vedanā,

Do duyên thọ có ái.
vedanāpaccayā taṇhā,

Do duyên ái có thủ.
taṇhāpaccayā upādānaṃ,

Do duyên thủ có hữu.
upādānapaccayā bhavo,

Do duyên hữu có sanh.
bhavapaccayā jāti,

Do duyên sanh có già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não. Như vậy, là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
jātipaccayā jarāmaraṇaṃ sokaparidevadukkhadomanassupāyāsā sambhavanti,

Do vô minh diệt không có dư tàn, nên các hành diệt.
evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hoti;

Do các hành diệt nên thức diệt. Do thức diệt nên danh sắc diệt. Do danh sắc diệt nên sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt nên xúc diệt. Do xúc diệt nên thọ diệt. Do thọ diệt nên ái diệt. Do ái diệt nên thủ diệt. Do thủ diệt nên hữu diệt.Do hữu diệt nên sanh diệt. Do sanh diệt nên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu não diệt.
avijjāya tveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho ...pe...

Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này diệt.’
evametassa kevalassa dukkhakkhandhassa nirodho hotī’ti.

Ðây là Thánh lý được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ.
Ayañcassa ariyo ñāyo paññāya sudiṭṭho hoti suppaṭividdho.

Này Gia chủ, khi nào với vị Thánh đệ tử, năm sợ hãi hận thù này được lắng dịu, bốn Dự lưu phần này được thành tựu, và Thánh lý này được khéo thấy và khéo thể nhập với trí tuệ, thời nếu muốn, vị ấy có thể tự mình trả lời về mình rằng:
Yato kho, gahapati, ariyasāvakassa imāni pañca bhayāni verāni vūpasantāni honti, imehi ca catūhi sotāpattiyaṅgehi samannāgato hoti, ayañcassa ariyo ñāyo paññāya sudiṭṭho hoti suppaṭividdho, so ākaṅkhamāno attanāva attānaṃ byākareyya:

‘Ta đã đoạn tận địa ngục; ta đã đoạn tận bàng sanh; ta đã đoạn tận ngạ quỷ; ta đã đoạn tận cõi dữ, ác thú, đọa xứ; ta đã chứng được Dự lưu, không còn bị đọa lạc, quyết chắc chứng đạt cứu cánh giác ngộ.’”
‘khīṇanirayomhi khīṇatiracchānayoni khīṇapettivisayo khīṇāpāyaduggativinipāto; sotāpannohamasmi avinipātadhammo niyato sambodhiparāyaṇo’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt