Tăng Chi Bộ 10.93
Aṅguttara Nikāya 10.93
10. Phẩm Nam Cư Sĩ (hay Upāli)
10. Upālivagga
Kiến
Kiṃdiṭṭhikasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại khu vườn Anāthapiṇḍika.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Bấy giờ có Gia chủ Anāthapiṇḍika, vào buổi sáng thật sớm đi ra khỏi Sāvatthī để yết kiến Thế Tôn. Rồi Gia chủ Anāthapiṇḍika suy nghĩ:
Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati divā divassa sāvatthiyā nikkhami bhagavantaṃ dassanāya. Atha kho anāthapiṇḍikassa gahapatissa etadahosi:
“Nay không phải thời để yết kiến Thế Tôn.
“akālo kho tāva bhagavantaṃ dassanāya.
Thế Tôn đang Thiền tịnh.
Paṭisallīno bhagavā.
Cũng không phải thời để yến kiến các vị Tỷ-kheo đang tu tập về ý, các Tỷ-kheo tu tập về ý đang Thiền tịnh.
Manobhāvanīyānampi bhikkhūnaṃ akālo dassanāya. Paṭisallīnā manobhāvanīyā bhikkhū.
Vậy ta hãy đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo”.
Yannūnāhaṃ yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkameyyan”ti.
Rồi Gia chủ Anāthapiṇḍika đi đến khu vườn các du sĩ ngoại đạo.
Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati yena aññatitthiyānaṃ paribbājakānaṃ ārāmo tenupasaṅkami.
2. Lúc bấy giờ, các du sĩ ngoại đạo đang ngồi hội họp, đang tụ họp ồn ào, cao tiếng, lớn tiếng bàn luận những vấn đề phù phiếm.
Tena kho pana samayena aññatitthiyā paribbājakā saṅgamma samāgamma unnādino uccāsaddamahāsaddā anekavihitaṃ tiracchānakathaṃ kathentā nisinnā honti.
Các du sĩ ngoại đạo ấy thấy Gia chủ Anāthapiṇḍika từ xa đi đến, khi thấy vậy liền dặn dò bảo với nhau:
Addasaṃsu kho te aññatitthiyā paribbājakā anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna aññamaññaṃ saṇṭhāpesuṃ:
“Hãy bớt ồn ào, các Tôn giả chớ có làm ồn, các Tôn giả.
“appasaddā bhonto hontu, mā bhonto saddamakattha.
Gia chủ Anāthapiṇḍika này đang đến, một đệ tử của Sa-môn Gotama.
Ayaṃ anāthapiṇḍiko gahapati ārāmaṃ āgacchati samaṇassa gotamassa sāvako.
Trong những đệ tử của Sa-môn Gotama có gia đình mặc áo trắng ở Sāvatthī, Gia chủ Anāthapiṇḍika là một trong những vị ấy.
Yāvatā kho pana samaṇassa gotamassa sāvakā gihī odātavasanā sāvatthiyaṃ paṭivasanti, ayaṃ tesaṃ aññataro anāthapiṇḍiko gahapati.
Các vị ấy ít ưa ồn ào, được huấn luyện trong ít ồn ào, tán thán ít ồn ào.
Appasaddakāmā kho pana te āyasmanto appasaddavinītā appasaddassa vaṇṇavādino.
Nếu vị ấy thấy hội chúng ít ồn ào, vị ấy có thể nghĩ đến thăm ở đây.”
Appeva nāma appasaddaṃ parisaṃ viditvā upasaṅkamitabbaṃ maññeyyā”ti.
Rồi các du sĩ ngoại đạo ấy giữ im lặng.
Atha kho te aññatitthiyā paribbājakā tuṇhī ahesuṃ.
3. Rồi Gia chủ Anàthapinidika đi đến các du sĩ đạo ấy, sau khi đến, nói lên với các du sĩ ngoại đạo ấy những lời chào đón hỏi thăm.
Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati yena te aññatitthiyā paribbājakā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ sammodi.
Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền ngồi xuống một bên. Các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Gia chủ Anàthapidika đang ngồi một bên:
Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ te aññatitthiyā paribbājakā etadavocuṃ:
“Này Gia chủ, hãy nói lên Sa-môn Gotama có kiến gì?”
“vadehi, gahapati, kiṃdiṭṭhiko samaṇo gotamo”ti?
“Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của Thế Tôn.”
“Na kho ahaṃ, bhante, bhagavato sabbaṃ diṭṭhiṃ jānāmī”ti.
“Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama. Nhưng này Gia chủ, hãy nói các Tỷ-kheo có kiến gì?”
“Iti kira tvaṃ, gahapati, na samaṇassa gotamassa sabbaṃ diṭṭhiṃ jānāsi; vadehi, gahapati, kiṃdiṭṭhikā bhikkhū”ti?
“Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo.”
“Bhikkhūnampi kho ahaṃ, bhante, na sabbaṃ diṭṭhiṃ jānāmī”ti.
“Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo;
“Iti kira tvaṃ, gahapati, na samaṇassa gotamassa sabbaṃ diṭṭhiṃ jānāsi napi bhikkhūnaṃ sabbaṃ diṭṭhiṃ jānāsi;
Vậy này Gia chủ, hãy nói về kiến của Gia chủ?”
vadehi, gahapati, kiṃdiṭṭhikosi tuvan”ti?
“Thưa các Tôn giả, thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi.
“Etaṃ kho, bhante, amhehi na dukkaraṃ byākātuṃ yaṃdiṭṭhikā mayaṃ.
Nhưng các Tôn giả hãy trả lời về kiến của các Tôn giả trước. Rồi sau thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi.”
Iṅgha tāva āyasmanto yathāsakāni diṭṭhigatāni byākarontu, pacchāpetaṃ amhehi na dukkaraṃ bhavissati byākātuṃ yaṃdiṭṭhikā mayan”ti.
4. Khi được nói vậy, một du sĩ ngoại đạo nói với Gia chủ Anāthapiṇḍika:
Evaṃ vutte, aññataro paribbājako anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ etadavoca:
“Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
“sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—
Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi.”
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, gahapatī”ti.
Một du sĩ ngoại đạo khác nói với Gia chủ Anāthapiṇḍika:
Aññataropi kho paribbājako anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ etadavoca:
“Vô thường là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
“asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—
Như vậy là kiến của tôi.”
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, gahapatī”ti.
Rồi một du sĩ ngoại đạo khác nói với Gia chủ Anāthapiṇḍika:
Aññataropi kho paribbājako anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ etadavoca:
“Có biên tế là thế giới …” …
“antavā loko ...pe...
“không có biên tế là thế giới …” …
anantavā loko …
“mạng sống và thân thể là một …” …
taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ …
“mạng sống và thân thể là khác …” …
aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …
“Như Lai có tồn tại sau khi chết …” …
hoti tathāgato paraṃ maraṇā …
“Như Lai không có tồn tại sau khi chết …” …
na hoti tathāgato paraṃ maraṇā …
“Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết …” …
hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā …
“Như Lai không có tồn tại và không không có tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—
Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi.”
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, gahapatī”ti.
5. Khi nghe nói vậy, Gia chủ Anāthapiṇḍika nói với các du sĩ ngoại đạo ấy:
Evaṃ vutte, anāthapiṇḍiko gahapati te paribbājake etadavoca:
“Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau:
“yvāyaṃ, bhante, āyasmā evamāha:
‘Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—
Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi.’
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, gahapatī’ti,
Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hay do duyên nghe tiếng người khác nói.
imassa ayamāyasmato diṭṭhi attano vā ayonisomanasikārahetu uppannā paratoghosapaccayā vā.
Kiến ấy như vậy được sanh, được tác thành (hữu vi) do tâm suy tư, do duyên khởi lên.
Sā kho panesā diṭṭhi bhūtā saṅkhatā cetayitā paṭiccasamuppannā.
Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường;
Yaṃ kho pana kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paṭiccasamuppannaṃ tadaniccaṃ.
cái gì vô thường, cái ấy là khổ.
Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.
Cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước (dính vào); cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp nhận.
Yaṃ dukkhaṃ tadeveso āyasmā allīno, tadeveso āyasmā ajjhupagato.
Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau:
Yopāyaṃ, bhante, āyasmā evamāha:
‘Vô thường là thế giới này. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
‘asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—
Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi.’
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, gahapatī’ti,
Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hoặc do duyên nghe tiếng người khác nói.
imassāpi ayamāyasmato diṭṭhi attano vā ayonisomanasikārahetu uppannā paratoghosapaccayā vā.
Kiến như vậy được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên.
Sā kho panesā diṭṭhi bhūtā saṅkhatā cetayitā paṭiccasamuppannā.
Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường;
Yaṃ kho pana kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paṭiccasamuppannaṃ tadaniccaṃ.
cái gì vô thường, cái ấy là khổ;
Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.
cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước; cái khổ ấy, Tôn giả chấp nhận.
Yaṃ dukkhaṃ tadeveso āyasmā allīno, tadeveso āyasmā ajjhupagato.
Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau:
Yopāyaṃ, bhante, āyasmā evamāha:
‘Có biên tế là thế giới …’ …
‘antavā loko ...pe...
‘không có biên tế là thế giới …’ …
anantavā loko …
‘mạng sống và thân thể là một …’ …
taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ …
‘mạng sống và thân thể là khác …’ …
aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …
‘Như Lai có tồn tại sau khi chết …’ …
hoti tathāgato paraṃ maraṇā …
‘Như Lai không có tồn tại sau khi chết …’ …
na hoti tathāgato paraṃ maraṇā …
‘Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết …’ …
hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā …
‘Như Lai không có tồn tại và không không có tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng.
neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—
Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi.’
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, gahapatī’ti,
Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hoặc do duyên nghe tiếng người khác nói.
imassāpi ayamāyasmato diṭṭhi attano vā ayonisomanasikārahetu uppannā paratoghosapaccayā vā.
Kiến như vậy được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên.
Sā kho panesā diṭṭhi bhūtā saṅkhatā cetayitā paṭiccasamuppannā.
Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường;
Yaṃ kho pana kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paṭiccasamuppannaṃ tadaniccaṃ.
cái gì vô thường, cái ấy là khổ;
Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.
cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước; cái khổ ấy, Tôn giả chấp nhận.”
Yaṃ dukkhaṃ tadeveso āyasmā allīno, tadeveso āyasmā ajjhupagato”ti.
7. Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với Gia chủ Anāthapiṇḍika:
Evaṃ vutte te paribbājakā anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ etadavocuṃ:
“Này Gia chủ, tất cả kiến của chúng tôi đã được nói lên.
“byākatāni kho, gahapati, amhehi sabbeheva yathāsakāni diṭṭhigatāni.
Này Gia chủ, hãy nói lên kiến của Gia chủ là gì?”
Vadehi, gahapati, kiṃdiṭṭhikosi tuvan”ti?
“Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường.
“Yaṃ kho, bhante, kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paṭiccasamuppannaṃ tadaniccaṃ.
Cái gì vô thường, cái ấy là khổ.
Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.
Cái gì là khổ, cái ấy là “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi.”
‘Yaṃ dukkhaṃ taṃ netaṃ mama, nesohamasmi, na meso attā’ti—
Tôi có kiến như vậy, thưa các Tôn giả.”
evaṃdiṭṭhiko ahaṃ, bhante”ti.
“Này Gia chủ, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường.
“Yaṃ kho, gahapati, kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paṭiccasamuppannaṃ tadaniccaṃ.
Cái gì vô thường, cái ấy là khổ.
Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.
Cái gì là khổ, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp trước, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp nhận.”
Yaṃ dukkhaṃ tadeva tvaṃ, gahapati, allīno, tadeva tvaṃ, gahapati, ajjhupagato”ti.
“Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường.
“Yaṃ kho, bhante, kiñci bhūtaṃ saṅkhataṃ cetayitaṃ paṭiccasamuppannaṃ tadaniccaṃ.
Cái gì vô thường, cái ấy là khổ.
Yadaniccaṃ taṃ dukkhaṃ.
Cái gì khổ, cái ấy là: “Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi”. Như vậy là như thật khéo thấy với chánh trí tuệ.
‘Yaṃ dukkhaṃ taṃ netaṃ mama, nesohamasmi, nameso attā’ti—evametaṃ yathābhūtaṃ sammappaññāya sudiṭṭhaṃ.
Và từ nơi khổ ấy, tôi như thật rõ biết sự xuất ly hơn thế nữa.”
Tassa ca uttari nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ pajānāmī”ti.
Khi nghe nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói lên lời.
Evaṃ vutte te paribbājakā tuṇhībhūtā maṅkubhūtā pattakkhandhā adhomukhā pajjhāyantā appaṭibhānā nisīdiṃsu.
7. Rồi Gia chủ Anāthapiṇḍika, sau khi biết các du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sửng sờ, không nói lên lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Gia chủ Anāthapiṇḍika, câu chuyện với các du sĩ ngoại đạo ấy như thế nào, đều thuật lại tất cả cho Thế Tôn rõ.
Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati te paribbājake tuṇhībhūte maṅkubhūte pattakkhandhe adhomukhe pajjhāyante appaṭibhāne viditvā uṭṭhāyāsanā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho anāthapiṇḍiko gahapati yāvatako ahosi tehi aññatitthiyehi paribbājakehi saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.
“Lành thay, lành thay, này Gia chủ.
“Sādhu sādhu, gahapati.
Như vậy, này Gia chủ, những kẻ ngu si ấy thường cần phải được bác bỏ với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp”.
Evaṃ kho te, gahapati, moghapurisā kālena kālaṃ sahadhammena suniggahitaṃ niggahetabbā”ti.
Rồi Thế Tôn với một bài pháp thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ Gia chủ Anāthapiṇḍika.
Atha kho bhagavā anāthapiṇḍikaṃ gahapatiṃ dhammiyā kathāya sandassesi samādapesi samuttejesi sampahaṃsesi.
Rồi Gia chủ Anāthapiṇḍika, sau khi được Thế Tôn với bài pháp thuyết giảng, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Atha kho anāthapiṇḍiko gahapati bhagavatā dhammiyā kathāya sandassito samādapito samuttejito sampahaṃsito uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
8. Rồi Thế Tôn, sau khi Gia chủ Anāthapiṇḍika ra đi không bao lâu, bảo các vị Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā acirapakkante anāthapiṇḍike gahapatimhi bhikkhū āmantesi:
“Tỷ-kheo nào dầu đã được đầy đủ 100 năm an cư mùa mưa trong Pháp và Luật này, vị ấy cần phải như vậy, thường thường bác bỏ các du sĩ ngoại đạo, với sự khéo bác bỏ nhờ Chánh pháp, như Gia chủ Anāthapiṇḍika đã khéo bác bỏ.”
“yopi so, bhikkhave, bhikkhu vassasatupasampanno imasmiṃ dhammavinaye, sopi evamevaṃ aññatitthiye paribbājake sahadhammena suniggahitaṃ niggaṇheyya yathā taṃ anāthapiṇḍikena gahapatinā niggahitā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt