Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.96

Tăng Chi Bộ 10.96
Aṅguttara Nikāya 10.96

10. Phẩm Nam Cư Sĩ (hay Upāli)
10. Upālivagga

Kokanuda
Kokanudasutta

1. Một thời, Tôn giả Ānanda trú ở Rājagaha, tại suối nước nóng Tapodārāma.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando rājagahe viharati tapodārāme.

Rồi Tôn giả Ānanda khi đêm vừa mới sáng, thức dậy đi đến Tapodārāma để rửa tay chân.
Atha kho āyasmā ānando rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya yena tapodā tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.

Rửa tay chân xong, ở Tapodà, sau khi ra khỏi, Tôn giả đứng đắp một y để phơi tay chân cho khô.
Tapodāya gattāni parisiñcitvā paccuttaritvā ekacīvaro aṭṭhāsi gattāni pubbāpayamāno.

Bấy giờ có tu sĩ Kokanuda, khi đêm vừa mới sáng, thức dậy đi đến Tapodà để rửa tay chân.
Kokanudopi kho paribbājako rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya yena tapodā tenupasaṅkami gattāni parisiñcituṃ.

Du sĩ Kokanuda thấy Tôn giả Ānanda từ xa đi đến, sau khi thấy, nói với Tôn giả Ānanda:
Addasā kho kokanudo paribbājako āyasmantaṃ ānandaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvāna āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Hiền giả là ai?”
“kvettha, āvuso”ti?

“Thưa Hiền giả, tôi là Tỷ-kheo.”
“Ahamāvuso, bhikkhū”ti.

“Này Hiền giả, thuộc về các Tỷ-kheo nào?”
“Katamesaṃ, āvuso, bhikkhūnan”ti?

“Là Sa-môn Thích tử.”
“Samaṇānaṃ, āvuso, sakyaputtiyānan”ti.

“Này Hiền giả, chúng tôi muốn hỏi Hiền giả một vài vấn đề. Nếu Hiền giả cho tôi thời gian để trả lời câu hỏi.”
“Puccheyyāma mayaṃ āyasmantaṃ kiñcideva desaṃ, sace āyasmā okāsaṃ karoti pañhassa veyyākaraṇāyā”ti.

“Thì nay Hiền giả, hãy hỏi đi. Sau khi nghe, tôi sẽ được biết.”
“Pucchāvuso, sutvā vedissāmā”ti.

2. Thưa Hiền giả, có phải: ‘Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng’? Kiến là như vậy, có phải không Hiền giả?
“Kiṃ nu kho, bho, ‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavan”ti?

“Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vậy: ‘Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng.’”
“Na kho ahaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhi: ‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Vậy có phải: “Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”? Kiến là như vậy, có phải không Hiền giả?
“Kiṃ pana, bho, ‘asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti—evaṃdiṭṭhi bhavan”ti?

Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vầy: “Thế giới là vô thường, kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng.”
“Na kho ahaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhi: ‘asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Có phải, thưa Hiền giả, ‘Thế giới là có biên tế …’ …
“Kiṃ nu kho, bho, antavā loko ...pe...

‘Thế giới là không biên tế …’ …
anantavā loko …

‘Sinh mạng và thân thể là một …’ …
taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ …

‘Sinh mạng và thân thể là khác …’ …
aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …

‘Như Lai có tồn tại sau khi chết …’ …
hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

‘Như Lai không tồn tại sau khi chết …’ …
na hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

‘Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết …’ …
hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”? Kiến là như vậy, có phải không thưa Hiền giả?
neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavan”ti?

Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vầy: “Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”.
“Na kho ahaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhi: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

Vậy thưa Hiền giả, Hiền giả không biết, Hiền giả không thấy.
“Tena hi bhavaṃ na jānāti, na passatī”ti?

Thưa Hiền giả, không phải tôi không biết, không phải tôi không thấy. Thưa Hiền giả, tôi có biết, tôi có thấy.
“Na kho ahaṃ, āvuso, na jānāmi na passāmi. Jānāmahaṃ, āvuso, passāmī”ti.

3. Có phải, thưa Hiền giả, “Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”? Ðược hỏi vậy, Hiền giả nói:
“‘Kiṃ nu kho, bho, sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavan’ti, iti puṭṭho samāno:

“Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vậy: ‘Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào là khác là hư vọng’.”
‘na kho ahaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhi—sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Có phải, thưa Hiền giả, “Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”? Ðược hỏi vậy, Hiền giả nói:
‘Kiṃ pana, bho, asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavan’ti, iti puṭṭho samāno:

“Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vậy: ‘Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào là khác là hư vọng’.”
‘na kho ahaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhi—asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Thế giới là có biên tế …
Kiṃ nu kho, bho, antavā loko ...pe...

Thế giới là vô biên …
anantavā loko …

Sinh mạng và thân thể là một …
taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ …

Sinh mạng và thân thể là khác …
aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …

Như Lai có tồn tại sau khi chết …
hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

Như Lai không có tồn tại sau khi chết …
na hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết …
hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

“Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”? Ðược hỏi vậy, Hiền giả nói:
neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññanti—evaṃdiṭṭhi bhavanti, iti puṭṭho samāno:

“Thưa Hiền giả, tôi không có kiến như vầy: “Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng.”
‘na kho ahaṃ, āvuso, evaṃdiṭṭhi—neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

“Vậy, thưa Hiền giả, ‘Hiền giả không biết, Hiền giả không thấy?’ Ðược hỏi vậy, Hiền giả nói:
‘Tena hi bhavaṃ na jānāti na passatī’ti, iti puṭṭho samāno:

“Thưa Hiền giả, không phải tôi không biết, không phải tôi không thấy. Thưa Hiền giả, tôi có biết, tôi có thấy”.
‘na kho ahaṃ, āvuso, na jānāmi na passāmi. Jānāmahaṃ, āvuso, passāmī’ti vadesi.

Vậy thưa Hiền giả, “cần phải hiểu như thế nào, ý nghĩa lời nói này? “
Yathā kathaṃ panāvuso, imassa bhāsitassa attho daṭṭhabbo”ti?

4. “Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”. Thưa Hiền giả, đây là tà kiến.
“‘Sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti kho, āvuso, diṭṭhigatametaṃ.

“Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”. Thưa Hiền giả, đây là tà kiến.
‘Asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti kho, āvuso, diṭṭhigatametaṃ.

“Thế giới có biên tế …
Antavā loko ...pe...

“Thế giới không biên tế …
anantavā loko …

“Sinh mạng và thân thể là một …
taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ …

“Sinh mạng và thân thể là khác …
aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …

“Như Lai có tồn tại sau khi chết …
hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

“Như Lai không có tồn tại sau khi chết …
na hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

“Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết …
hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

“Như Lai không có tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”. Thưa Hiền giả, đây là tà kiến.
‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti kho, āvuso, diṭṭhigatametaṃ.

Thưa Hiền giả, xa cho đến như vậy là các tà kiến. Xa cho đến như vậy là kiến xứ, kiến trú, kiến triền phược, kiến khởi, kiến diệt, tôi có biết điều ấy, tôi có thấy điều ấy.
Yāvatā, āvuso, diṭṭhi yāvatā diṭṭhiṭṭhānaṃ diṭṭhiadhiṭṭhānaṃ diṭṭhipariyuṭṭhānaṃ diṭṭhisamuṭṭhānaṃ diṭṭhisamugghāto, tamahaṃ jānāmi tamahaṃ passāmi.

Do tôi có biết điều ấy, tôi có thấy điều ấy, làm sao tôi lại trả lời:
Tamahaṃ jānanto tamahaṃ passanto kyāhaṃ vakkhāmi:

“Tôi không biết, tôi không thấy”! Thưa Hiền giả: “Tôi có biết, tôi có thấy”.
‘na jānāmi na passāmī’ti? Jānāmahaṃ, āvuso, passāmī”ti.

“Hiền giả tên là gì? Và như thế nào các vị đồng Phạm hạnh biết Hiền giả?”
“Ko nāmo āyasmā, kathañca panāyasmantaṃ sabrahmacārī jānantī”ti?

“Thưa Hiền giả, Ānanda là tên của tôi. Và các vị đồng Phạm hạnh biết tôi là Ānanda”.
“‘Ānando’ti kho me, āvuso, nāmaṃ. ‘Ānando’ti ca pana maṃ sabrahmacārī jānantī”ti.

“Ôi, tôi đang nói chuyện với Tôn giả Ðại sư, mà tôi không biết là ‘Tôn giả Ānanda’.
“Mahācariyena vata kira, bho, saddhiṃ mantayamānā na jānimha: ‘āyasmā ānando’ti.

Nếu tôi biết là: Tôn giả Ānanda, tôi đã không nói nhiều như vậy.
Sace hi mayaṃ jāneyyāma: ‘ayaṃ āyasmā ānando’ti, ettakampi no nappaṭibhāyeyya.

Mong Tôn giả Ānanda tha lỗi cho.”
Khamatu ca me āyasmā ānando”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt