Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 10.95

Tăng Chi Bộ 10.95
Aṅguttara Nikāya 10.95

10. Phẩm Nam Cư Sĩ (hay Upāli)
10. Upālivagga

Uttiya
Uttiyasutta

1. Bấy giờ có du sĩ ngoại đạo Uttiya đi đến Thế Tôn; sau khi đến nói lên với Thế Tôn những lời chào đón hỏi thăm, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, du sĩ Uttiya nói với Thế Tôn:
Atha kho uttiyo paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho uttiyo paribbājako bhagavantaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả Gotama, có phải Tôn giả chủ trương thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng?”
“kiṃ nu kho, bho gotama, sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan”ti?

Này Uttiya. Ta không có nói như sau: “Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng”.
“Abyākataṃ kho etaṃ, uttiya, mayā: ‘sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

“Thưa Tôn giả Gotama, có phải Tôn giả chủ trương thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng?”
“Kiṃ pana, bho gotama, asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan”ti?

“Này Uttiya. Ta không có nói như sau: ‘Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng‘”.
“Etampi kho, uttiya, abyākataṃ mayā: ‘asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

“Này Tôn giả Gotama, có phải thế giới là có biên tế …
“Kiṃ nu kho, bho gotama, antavā loko ...pe...

thế giới là không biên tế …
anantavā loko …

sinh mạng và thân thể là một …
taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ …

sinh mạng và thân thể là khác …
aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …

Như Lai có tồn tại sau chết …
hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

Như Lai không có tồn tại sau khi chết …
na hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

Như Lai có tồn tại và không tồn tại sau khi chết …
hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā …

Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng?”
neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan”ti?

“Này Uttiya, Ta không có nói như sau: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng‘”.
“Etampi kho, uttiya, abyākataṃ mayā: ‘neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’”ti.

2. Thưa Tôn giả Gotama, có phải thế giới là thường còn, kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng? Ðược hỏi vậy, Thế Tôn trả lời: “Này Uttiya, Ta không có nói: ‘Thế giới là thường còn. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng’.”
“‘Kiṃ nu kho, bho gotama, sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti, iti puṭṭho samāno ‘abyākataṃ kho etaṃ, uttiya, mayā—sassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Thưa Tôn giả Gotama, có phải thế giới là vô thường, kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng? Ðược hỏi vậy, Thế Tôn trả lời: “Này Uttiya, Ta không có nói: ‘Thế giới là vô thường. Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng’.”
‘Kiṃ pana, bho gotama, asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti, iti puṭṭho samāno: ‘etampi kho, uttiya, abyākataṃ mayā asassato loko, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

có phải thế giới là có biên tế? … có phải thế giới là có biên tế? … có phải thế giới không có biên tế? … có phải sinh mạng và thân thể là một? … có phải sinh mạng và thân thể là khác? …
‘Kiṃ nu kho, bho gotama, antavā loko ...pe... anantavā loko … taṃ jīvaṃ taṃ sarīraṃ … aññaṃ jīvaṃ aññaṃ sarīraṃ …

có phải Như Lai có tồn tại sau khi chết? … có phải Như Lai không có tồn tại sau khi chết? … có phải Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau chết? … có phải Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết? Kiến này là sự thật, kiến nào khác là hư vọng? Ðược hỏi vậy, Thế Tôn trả lời:
hoti tathāgato paraṃ maraṇā … na hoti tathāgato paraṃ maraṇā … hoti ca na ca hoti tathāgato paraṃ maraṇā … neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti, iti puṭṭho samāno:

“Này Uttiya, Ta không có nói: ‘Như Lai không tồn tại và không không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng’.”
‘etampi kho, uttiya, abyākataṃ mayā—neva hoti na na hoti tathāgato paraṃ maraṇā, idameva saccaṃ moghamaññan’ti vadesi.

Vậy cái gì được Tôn giả Gotama nói lên?”
Atha kiñcarahi bhotā gotamena byākatan”ti?

“Với thắng trí, này Uttiya, Ta thuyết pháp cho các đệ tử để họ được thanh tịnh, để sầu bi được vượt qua, để khổ ưu được chấm dứt, để Thánh lý được chứng đạt, để Niết-bàn được chứng ngộ.”
“Abhiññāya kho ahaṃ, uttiya, sāvakānaṃ dhammaṃ desemi sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāyā”ti.

“Nếu Tôn giả Gotama thuyết pháp cho các đệ tử để họ được thanh tịnh … để Niết-bàn được chứng ngộ”, thời do vậy, cả thế giới này sẽ đi ra khỏi, hay chỉ có một nửa, hay chỉ có một phần ba?
“Yaṃ panetaṃ bhavaṃ gotamo abhiññāya sāvakānaṃ dhammaṃ desesi sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, sabbo vā tena loko nīyati upaḍḍho vā tibhāgo vā”ti?

Ðược nghe nói vậy, Thế Tôn im lặng.
Evaṃ vutte, bhagavā tuṇhī ahosi.

3. Rồi Tôn giả Ānanda suy nghĩ như sau: “Chớ có để cho du sĩ Uttiya có ác tà kiến rằng:
Atha kho āyasmato ānandassa etadahosi: “mā hevaṃ kho uttiyo paribbājako pāpakaṃ diṭṭhigataṃ paṭilabhi:

“Sa-môn Gotama khi được nghe ta hỏi câu hỏi tối ư quan trọng lại tránh né, không có trả lời, không dám trả lời!”
‘sabbasāmukkaṃsikaṃ vata me samaṇo gotamo pañhaṃ puṭṭho saṃsādeti, no vissajjeti, na nūna visahatī’ti.

Và như vậy là bất hạnh, là đau khổ lâu dài cho du sĩ Uttiya.”
Tadassa uttiyassa paribbājakassa dīgharattaṃ ahitāya dukkhāyā”ti.

Rồi Tôn giả Ānanda nói với du sĩ Uttiya:
Atha kho āyasmā ānando uttiyaṃ paribbājakaṃ etadavoca:

“4. Vậy này Hiền giả Uttiya, Ta sẽ dùng một ví dụ.
“tenahāvuso uttiya, upamaṃ te karissāmi.

Chính nhờ ví dụ, ở đây một số người có trí có thể hiểu được ý nghĩa của lời nói.
Upamāya m’idhekacce viññū purisā bhāsitassa atthaṃ ājānanti.

Ví như, này Hiền giả Uttiya, ngôi thành trì biên địa của vua với những nền móng vững chắc, với các thành lũy tháp canh vững chắc, và chỉ có một cửa vào.
Seyyathāpi, āvuso uttiya, rañño paccantimaṃ nagaraṃ daḷhuddhāpaṃ daḷhapākāratoraṇaṃ ekadvāraṃ.

Tại đây, người giữ cửa là người sáng suốt, thông minh, có trí, ngăn chận những người không quen biết, cho vào những người quen biết.
Tatrassa dovāriko paṇḍito byatto medhāvī aññātānaṃ nivāretā ñātānaṃ pavesetā.

Khi đi tuần trên con đường chạy vòng quanh thành trì ấy, người ấy có thể không thấy một kẽ hở trong thành hay lỗ trống thành lớn cho đến một con mèo có thể chui qua.
So tassa nagarassa samantā anupariyāyapathaṃ anukkamati. Anupariyāyapathaṃ anukkamamāno na passeyya pākārasandhiṃ vā pākāravivaraṃ vā, antamaso biḷāranikkhamanamattampi.

Người ấy có thể không biết được: “Từng ấy loài hữu tình đã đi vào hay đi ra thành này”.
No ca khvassa evaṃ ñāṇaṃ hoti: ‘ettakā pāṇā imaṃ nagaraṃ pavisanti vā nikkhamanti vā’ti.

Nhưng điều này cho biết: “Những loài hữu tình thô lớn nào đi vào hay đi ra thành này”, tất cả chúng phải đi vào hay đi ra ngang qua cửa thành này.
Atha khvassa evamettha hoti: ‘ye kho keci oḷārikā pāṇā imaṃ nagaraṃ pavisanti vā nikkhamanti vā, sabbe te iminā dvārena pavisanti vā nikkhamanti vā’ti.

Cũng vậy, này Hiền giả Uttiya, đối với Như Lai, không phải là một vấn đề quan trọng (câu hỏi này của Thầy) là có phải toàn thế giới do vậy được thoát ra khỏi hay nửa phần thế giới, hay là một phần ba?
Evamevaṃ kho, āvuso uttiya, na tathāgatassa evaṃ ussukkaṃ hoti: ‘sabbo vā tena loko nīyati, upaḍḍho vā, tibhāgo vā’ti.

Những điều Như Lai nói là như sau: “Những ai đã được thoát ra khỏi thế giới, hay đang được thoát ra, hay sẽ thoát ra, tất cả những vị ấy, sau khi đoạn tận năm triền cái, những pháp làm ô nhiểm tâm, làm yếu ớt trí tuệ, với tâm khéo an trú trên Bốn niệm xứ; sau khi như thật tu tập Bảy giác chi, như vậy các vị ấy đã thoát khỏi, đang thoát khỏi, sẽ thoát khỏi thế giới.
Atha kho evamettha tathāgatassa hoti: ‘ye kho keci lokamhā nīyiṃsu vā nīyanti vā nīyissanti vā, sabbe te pañca nīvaraṇe pahāya cetaso upakkilese paññāya dubbalīkaraṇe, catūsu satipaṭṭhānesu suppatiṭṭhitacittā, satta bojjhaṅge yathābhūtaṃ bhāvetvā.

Đó là cách họ đã được thoát ra khỏi thế giới, hay đang được thoát ra, hay sẽ thoát ra.”
Evamete lokamhā nīyiṃsu vā nīyanti vā nīyissanti vā’ti.

Này Hiền giả Uttiya, về câu hỏi mà Thầy đã hỏi Thế Tôn đứng trên một lập trường khác.
Yadeva kho tvaṃ, āvuso uttiya, bhagavantaṃ pañhaṃ apucchi tadevetaṃ pañhaṃ bhagavantaṃ aññena pariyāyena apucchi.

Ðó là lý do tại sao Thế Tôn không trả lời câu hỏi ấy cho Thầy.”
Tasmā te taṃ bhagavā na byākāsī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt