Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 2.37

Tăng Chi Bộ 2.37
Aṅguttara Nikāya 2.37

Phẩm Tâm Thăng Bằng
Samacittavagga

37.

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Tôn giả Mahākaccāna ở tại Varaṇā, trên bờ sông Kaddamada.
ekaṃ samayaṃ āyasmā mahākaccāno varaṇāyaṃ viharati bhaddasāritīre.

Rồi Bà-la-môn Ārāmadaṇḍa đi đến Tôn giả Mahākaccāna, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Mahākaccāna những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Ārāmadaṇḍa thưa với Tôn giả Mahākaccāna:
Atha kho ārāmadaṇḍo brāhmaṇo yenāyasmā mahākaccāno tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā mahākaccānena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho ārāmadaṇḍo brāhmaṇo āyasmantaṃ mahākaccānaṃ etadavoca:

“Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccāna, do duyên gì các người Sát-đế-lỵ tranh chấp với các người Sát-đế-lỵ, các người Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà-la-môn, các người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ?”
“ko nu kho, bho kaccāna, hetu ko paccayo yena khattiyāpi khattiyehi vivadanti, brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatikāpi gahapatikehi vivadantī”ti?

“Do nhân thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham, này Bà-la-môn, nên các quý tộc tranh chấp với các quý tộc, các người Bà-la-môn tranh chấp với các người Bà La môn, các người gia chủ tranh chấp với các người gia chủ.”
“Kāmarāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosāna hetu kho, brāhmaṇa, khattiyāpi khattiyehi vivadanti, brāhmaṇāpi brāhmaṇehi vivadanti, gahapatikāpi gahapatikehi vivadantī”ti.

“Do nhân gì, thưa Tôn giả Kaccāna, do duyên gì các Sa-môn tranh chấp với các Sa-môn?”
“Ko pana, bho kaccāna, hetu ko paccayo yena samaṇāpi samaṇehi vivadantī”ti?

“Do nhân thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham, này Bà-la-môn, nên các Sa-môn tranh chấp với các Sa-môn.”
“Diṭṭhirāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosāna hetu kho, brāhmaṇa, samaṇāpi samaṇehi vivadantī”ti.

“Nhưng thưa Tôn giả Kaccāna, có người nào ở đời có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua thiên chấp, bị trói buộc, bị đắm say, bị xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này?”
“Atthi pana, bho kaccāna, koci lokasmiṃ yo imañceva kāmarāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosānaṃ samatikkanto, imañca diṭṭhirāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosānaṃ samatikkanto”ti?

“Có người ở đời này, này Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các dục tham này, có thể vượt qua thiên chấp, trói buộc, đắm say, xâm chiếm, bị đắm trước bởi các kiến tham này.”
“Atthi, brāhmaṇa, lokasmiṃ yo imañceva kāmarāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosānaṃ samatikkanto, imañca diṭṭhirāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosānaṃ samatikkanto”ti.

“Vị ấy là ai, này các Bà-la-môn, có thể vượt qua thiên chấp … kiến tham này?”
“Ko pana so, bho kaccāna, lokasmiṃ yo imañceva kāmarāgābhinivesavinibandhapaligedhapariyuṭṭhānajjhosānaṃ samatikkanto, imañca diṭṭhirāgābhinivesavinibandhapaligedhapariyuṭṭhānajjhosānaṃ samatikkanto”ti?

“Ở vùng đất phía Ðông, này Bà-la-môn, có một thành phố tên là Sāvatthī.
“Atthi, brāhmaṇa, puratthimesu janapadesu sāvatthī nāma nagaraṃ.

Tại đấy, Thế Tôn nay đang trú, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
Tattha so bhagavā etarahi viharati arahaṃ sammāsambuddho.

Vị Thế Tôn ấy, này Bà-la-môn, đã vượt qua thiên chấp … kiến tham này.”
So hi, brāhmaṇa, bhagavā imañceva kāmarāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosānaṃ samatikkanto, imañca diṭṭhirāgā bhinivesa vinibandha paligedha pariyuṭṭhāna ajjhosānaṃ samatikkanto”ti.

Khi được nghe nói vậy, Bà-la-môn Ārāmadaṇḍa từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, đầu gối phía hữu quỳ trên đất, chắp tay hướng về phía Thế Tôn, và nói lên ba lần lời cảm hứng như sau:
Evaṃ vutte, ārāmadaṇḍo brāhmaṇo uṭṭhāyāsanā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā dakkhiṇaṃ jāṇumaṇḍalaṃ pathaviyaṃ nihantvā yena bhagavā tenañjaliṃ paṇāmetvā tikkhattuṃ udānaṃ udānesi:

“Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác! Kính lễ Thế Tôn ấy, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác!
“Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa.

Vị Thế Tôn ấy, đã vượt qua thiên chấp … kiến tham này.
Yo hi so bhagavā imañceva kāmarāgābhinivesavinibandhapaligedhapariyuṭṭhānajjhosānaṃ samatikkanto, imañca diṭṭhirāgābhinivesavinibandhapaligedhapariyuṭṭhānajjhosānaṃ samatikkanto”ti.

Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Kaccāna! Thật vi diệu thay, thưa Tôn giả Kaccāna!
“Abhikkantaṃ, bho kaccāna, abhikkantaṃ, bho kaccāna.

Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, thưa Tôn giả Kaccāna, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ đi lạc hướng, hay đem đèn vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, chánh pháp đã được Tôn giả Kaccāna dùng nhiều pháp môn để giải thích.
Seyyathāpi, bho kaccāna, nikkujjitaṃ vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ ācikkheyya; andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya: ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti; evamevaṃ bhotā kaccānena anekapariyāyena dhammo pakāsito.

Thưa Tôn giả Kaccāna, con nay xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng!
Esāhaṃ, bho kaccāna, taṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca bhikkhusaṅghañca.

Mong Tôn giả Kaccāna chấp nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng!”
Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ kaccāno dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gatan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt