Tăng Chi Bộ 2.36
Aṅguttara Nikāya 2.36
Phẩm Tâm Thăng Bằng
Samacittavagga
Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—
Một thời, Thế Tôn ở tại Sāvatthī, rừng Jeta, tự viện ông Anāthapiṇḍika.
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sāriputta trú ở Sāvatthī, tại Ðông Viên tự, ngôi lâu đài của mẹ Migāra.
Tena kho pana samayena āyasmā sāriputto sāvatthiyaṃ viharati pubbārāme migāramātupāsāde.
Tại đấy, Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi:
“Này chư Hiền Tỷ-kheo!”
“āvuso bhikkhave”ti.
Thưa Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tôn giả Sāriputta.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ.
Tôn giả Sāriputta nói như sau:
Āyasmā sāriputto etadavoca:
“Này chư Hiền, tôi sẽ giảng về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc.
“ajjhattasaṃyojanañca, āvuso, puggalaṃ desessāmi bahiddhāsaṃyojanañca.
Hãy nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.”
Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.
Thưa vâng, Hiền giả. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp tôn giả Sāriputta.
“Evamāvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ.
Tôn giả Sāriputta nói như sau:
Āyasmā sāriputto etadavoca:
“Này chư Hiền, thế nào là người bị nội kiết sử trói buộc?
“Katamo cāvuso, ajjhattasaṃyojano puggalo?
Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Idhāvuso, bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno, aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu.
Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên giới.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā aññataraṃ devanikāyaṃ upapajjati.
Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy làm người lại trở về, trở về ở thế giới này.
So tato cuto āgāmī hoti, āgantā itthattaṃ.
Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị nội kiết sử trói buộc, người lại trở lại, trở lui trạng thái này.
Ayaṃ vuccati, āvuso, ajjhattasaṃyojano puggalo āgāmī hoti, āgantā itthattaṃ.
Thế nào, này chư Hiền, là người bị ngoại kiết sử trói buộc?
Katamo cāvuso, bahiddhāsaṃyojano puggalo?
Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Idhāvuso, bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno, aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu.
Vị ấy, chứng đạt và an trú tịch tịnh tâm giải thoát.
So aññataraṃ santaṃ cetovimuttiṃ upasampajja viharati.
Sau khi thân hoại mạng chung, Vị ấy sanh vào một loại chư Thiên.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā aññataraṃ devanikāyaṃ upapajjati.
Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa.
So tato cuto anāgāmī hoti, anāgantā itthattaṃ.
Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa.
Ayaṃ vuccatāvuso, bahiddhāsaṃyojano puggalo anāgāmī hoti, anāgantā itthattaṃ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống hộ trì với sự hộ trì của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học giới.
Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu sīlavā hoti ...pe... samādāya sikkhati sikkhāpadesu.
Vị ấy thực hiện sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt các dục vọng.
So kāmānaṃyeva nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.
Vị ấy thực hiện sự yếm ly, ly tham, đoạn diệt các dục vọng trong tương lai.
So bhavānaṃyeva nibbidāya virāgāya nirodhāya paṭipanno hoti.
Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt khát ái.
So taṇhākkhayāya paṭipanno hoti.
Vị ấy thực hiện sự đoạn diệt tham.
So lobhakkhayāya paṭipanno hoti.
Vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh vào một trong các Thiên giới.
So kāyassa bhedā paraṃ maraṇā aññataraṃ devanikāyaṃ upapajjati.
Sau khi từ chỗ ấy mạng chung, vị ấy không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa.
So tato cuto anāgāmī hoti, anāgantā itthattaṃ.
Vị này, này chư Hiền, được gọi là người bị ngoại kiết sử trói buộc, không còn trở lui, không còn trở lại trạng thái này nữa.”
Ayaṃ vuccatāvuso, bahiddhāsaṃyojano puggalo anāgāmī hoti, anāgantā itthattan”ti.
Rồi một số đông chư Thiên với tâm thăng bằng đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, chư Thiên ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho sambahulā samacittā devatā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho tā devatā bhagavantaṃ etadavocuṃ:
“Tôn giả Sāriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông viên tự, ở lâu đài mẹ Migāra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc.
“eso, bhante, āyasmā sāriputto pubbārāme migāramātupāsāde bhikkhūnaṃ ajjhattasaṃyojanañca puggalaṃ deseti bahiddhāsaṃyojanañca.
Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn.
Haṭṭhā, bhante, parisā.
Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sāriputta.”
Sādhu, bhante, bhagavā yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā”ti.
Thế Tôn im lặng nhận lời.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena.
Rồi Thế Tôn, rồi như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, cũng vậy, biến mất ở rừng Jeta, hiện ra ở tại Ðông viên tự, tại lâu đài mẹ Migāra, trước mặt Tôn giả Sāriputta.
Atha kho bhagavā—seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya, pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evamevaṃ—jetavane antarahito pubbārāme migāramātupāsāde āyasmato sāriputtassa sammukhe pāturahosi.
Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Nisīdi bhagavā paññatte āsane.
Rồi Tôn giả Sāriputta đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên.
Āyasmāpi kho sāriputto bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Thế Tôn nói với Tôn giả Sāriputta đang ngồi xuống một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho āyasmantaṃ sāriputtaṃ bhagavā etadavoca:
“Ở đây, này Sāriputta, có một số đông chư Thiên, với tâm thăng bằng, đi đến Ta; sau khi đến, đảnh lễ Ta rồi đứng một bên. Ðứng một bên, chư Thiên ấy thưa với Ta:
“Idha, sāriputta, sambahulā samacittā devatā yenāhaṃ tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu. Ekamantaṃ ṭhitā kho, sāriputta, tā devatā maṃ etadavocuṃ:
‘Tôn giả Sāriputta này, bạch Thế Tôn, tại Ðông viên tự, ở lâu đài mẹ Migāra, thuyết pháp về người bị nội kiết sử trói buộc và người bị ngoại kiết sử trói buộc.
‘eso, bhante, āyasmā sāriputto pubbārāme migāramātupāsāde bhikkhūnaṃ ajjhattasaṃyojanañca puggalaṃ deseti bahiddhāsaṃyojanañca.
Hội chúng rất hoan hỷ, bạch Thế Tôn!
Haṭṭhā, bhante, parisā.
Lành thay! Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn đi đến Tôn giả Sāriputta.’
Sādhu, bhante, bhagavā yena āyasmā sāriputto tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’ti.
Này Sāriputta, chư Thiên ấy tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau.
Tā kho pana, sāriputta, devatā dasapi hutvā vīsampi hutvā tiṃsampi hutvā cattālīsampi hutvā paññāsampi hutvā saṭṭhipi hutvā āraggakoṭinitudanamattepi tiṭṭhanti, na ca aññamaññaṃ byābādhenti.
Này Sāriputta, Thầy có thể nghĩ như sau:
Siyā kho pana, sāriputta, evamassa:
‘Chắc chắn, tại chỗ kia (trên thế giới) đã tu tập, nhờ vậy, chư Thiên ấy, tuy con số đến 10, 20, 30, 40, 50, 60, nhưng cùng đứng chỉ trong khoảng trống đầu một cây kim, không có chen lấn nhau.’
‘tattha nūna tāsaṃ devatānaṃ tathā cittaṃ bhāvitaṃ yena tā devatā dasapi hutvā vīsampi hutvā tiṃsampi hutvā cattālīsampi hutvā paññāsampi hutvā saṭṭhipi hutvā āraggakoṭinitudanamattepi tiṭṭhanti na ca aññamaññaṃ byābādhentī’ti.
Này Sāriputta, Thầy chớ có thấy như vậy.
Na kho panetaṃ, sāriputta, evaṃ daṭṭhabbaṃ.
Chính tại đây, này Sāriputta, chư Thiên ấy đã tu tập tâm, nhờ như vậy chư Thiên ấy tuy con số đến … không chen lấn nhau.
Idheva kho, sāriputta, tāsaṃ devatānaṃ tathā cittaṃ bhāvitaṃ, yena tā devatā dasapi hutvā ...pe... na ca aññamaññaṃ byābādhenti.
Do vậy, này Sāriputta, cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, sāriputta, evaṃ sikkhitabbaṃ:
‘Chúng tôi sẽ có các căn an tịnh, các ý an tịnh.’
‘santindriyā bhavissāma santamānasā’ti.
Này Sāriputta, cần phải học tập như vậy.
Evañhi vo, sāriputta, sikkhitabbaṃ.
Với những ai có các căn an tịnh, này Sāriputta, với những ai có các ý an tịnh, thời thân nghiệp cũng sẽ được an tịnh, khẩu nghiệp được an tịnh, ý nghiệp được an tịnh.
‘Santindriyānañhi vo, sāriputta, santamānasānaṃ santaṃyeva kāyakammaṃ bhavissati santaṃ vacīkammaṃ santaṃ manokammaṃ.
‘Chúng ta sẽ đem tặng cho các vị đồng Phạm hạnh một quà tặng an tịnh.’
Santaṃyeva upahāraṃ upaharissāma sabrahmacārīsū’ti.
Như vậy, này Sāriputta, các Thầy cần phải học tập.
‘Evañhi vo, sāriputta, sikkhitabbaṃ.
Các du sĩ ngoại đạo nào, này Sāriputta, không được nghe pháp môn này, họ sẽ bị thiệt hại.”
Anassuṃ kho, sāriputta, aññatitthiyā paribbājakā ye imaṃ dhammapariyāyaṃ nāssosun’”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt