Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 3.126

Tăng Chi Bộ 3.126
Aṅguttara Nikāya 3.126

13. Phẩm Kusinārā
13. Kusināravagga

Bharaṇḍu
Bharaṇḍukālāmasutta

Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala và đi đến Kapilavatthu.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno yena kapilavatthu tadavasari.

Họ Thích Mahānāma nghe tin Thế Tôn đã đến Kapilavatthu.
Assosi kho mahānāmo sakko: “bhagavā kira kapilavatthuṃ anuppatto”ti.

Rồi họ Thích Mahānāma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với họ Thích Mahānāma đang đứng một bên:
Atha kho mahānāmo sakko yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitaṃ kho mahānāmaṃ sakkaṃ bhagavā etadavoca:

“Hãy đi, này Mahānāma và tìm xem ở Kapilavatthu có chỗ nào, tại chỗ ấy, hôm nay chúng ta sẽ trú lại một đêm.”
“Gaccha, mahānāma, kapilavatthusmiṃ, tathārūpaṃ āvasathaṃ jāna yatthajja mayaṃ ekarattiṃ vihareyyāmā”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” họ Thích Mahānāma vâng đáp Thế Tôn, đi vào Kapilavatthu, đi khắp toàn vùng Kapilavatthu và không thấy một chỗ nào, Thế Tôn có thể trú một đêm.
“Evaṃ, bhante”ti kho mahānāmo sakko bhagavato paṭissutvā kapilavatthuṃ pavisitvā kevalakappaṃ kapilavatthuṃ anvāhiṇḍanto nāddasa kapilavatthusmiṃ tathārūpaṃ āvasathaṃ yatthajja bhagavā ekarattiṃ vihareyya.

Rồi họ Thích Mahānāma đi đến Thế Tôn, sau khi đến bạch Thế Tôn:
Atha kho mahānāmo sakko yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, ở Kapilavatthu không có chỗ nào, tại đây, hôm nay Thế Tôn có thể trú một đêm.
“natthi, bhante, kapilavatthusmiṃ tathārūpo āvasatho yatthajja bhagavā ekarattiṃ vihareyya.

Nhưng có Bharandu, người Kālāma này, trước tu Phạm hạnh với Thế Tôn.
Ayaṃ, bhante, bharaṇḍu kālāmo bhagavato purāṇasabrahmacārī.

Hôm nay, Thế Tôn hãy ở một đêm tại am thất của vị ấy?”
Tassajja bhagavā assame ekarattiṃ viharatū”ti.

“Này Mahānāma, hãy đi và trải một tấm thảm cho ta ở đó.”
“Gaccha, mahānāma, santharaṃ paññāpehī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” họ Thích Mahānāma vâng đáp Thế Tôn, đi đến am thất của Bharandu người Kālāma, sau khi đến, trải tấm thảm, đặt nước để rửa chân, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:
“Evaṃ, bhante”ti kho mahānāmo sakko bhagavato paṭissutvā yena bharaṇḍussa kālāmassa assamo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā santharaṃ paññāpetvā udakaṃ ṭhapetvā pādānaṃ dhovanāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, tấm thảm đã trải, nước để rửa chân đã sẵn sàng. Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy làm gì Ngài nghĩ là phải thời!
“santhato, bhante, santhāro, udakaṃ ṭhapitaṃ pādānaṃ dhovanāya. Yassadāni, bhante, bhagavā kālaṃ maññatī”ti.

Rồi Thế Tôn đi đến am thất của Bharandu người Kālāma, sau khi đến, ngồi xuống chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân.
Atha kho bhagavā yena bharaṇḍussa kālāmassa assamo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā pāde pakkhālesi.

Rồi họ Thích Mahānāma nghĩ như sau: “Nay không phải thời để hầu hạ Thế Tôn. Thế Tôn đang mệt mỏi. Ngày mai ta sẽ đến hầu hạ Thế Tôn”. Nghĩ vậy xong bèn đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về ngài rồi đi ra.
Atha kho mahānāmassa sakkassa etadahosi: “akālo kho ajja bhagavantaṃ payirupāsituṃ. Kilanto bhagavā. Sve dānāhaṃ bhagavantaṃ payirupāsissāmī”ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.

Họ Thích Mahānāma, sau khi đêm ấy đã mãn, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với họ Thích Mahānāma đang ngồi một bên:
Atha kho mahānāmo sakko tassā rattiyā accayena yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho mahānāmaṃ sakkaṃ bhagavā etadavoca:

“Này Mahānāma, có ba vị đạo sư có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?
“tayo khome, mahānāma, satthāro santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?

Ở đây, này Mahānāma, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng; nhưng không trình bày sự biến tri của các sắc, không trình bày sự biến tri của các cảm thọ.
Idha, mahānāma, ekacco satthā kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti; na rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti, na vedanānaṃ pariññaṃ paññāpeti.

Ở đây, này Mahānāma, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng; trình bày sự biến tri của các sắc, nhưng không trình bày sự biến tri của các cảm thọ.
Idha pana, mahānāma, ekacco satthā kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti, rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti; na vedanānaṃ pariññaṃ paññāpeti.

Nhưng ở đây, này Mahānāma, có vị đạo sư trình bày sự biến tri của các dục vọng, trình bày sự biến tri của các sắc, trình bày sự biến tri của các cảm thọ.
Idha pana, mahānāma, ekacco satthā kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti, rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti, vedanānaṃ pariññaṃ paññāpeti.

Này Mahānāma, có ba vị đạo sư này có mặt, xuất hiện ở đời.
Ime kho, mahānāma, tayo satthāro santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.

Trong ba vị này, này Mahānāma, kết luận là một hay là sai khác?”
Imesaṃ, mahānāma, tiṇṇaṃ satthārānaṃ ekā niṭṭhā udāhu puthu niṭṭhā”ti?

Khi được nói như vậy, Bharaṇḍu, người Kālāma, nói với họ Thích Mahānāma:
Evaṃ vutte, bharaṇḍu kālāmo mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca:

“Này Mahānāma, hãy nói là một!”
“ekāti, mahānāma, vadehī”ti.

Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với họ Thích Mahānāma:
Evaṃ vutte, bhagavā mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca:

“Này Mahānāma, hãy nói là khác!”
“nānāti, mahānāma, vadehī”ti.

Lần thứ hai, Bharaṇḍu, người Kālāma nói với họ Thích Mahānāma:
Dutiyampi kho bharaṇḍu kālāmo mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca:

“Này Mahānāma, hãy nói là một!”
“ekāti, mahānāma, vadehī”ti.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với họ Thích Mahānāma:
Dutiyampi kho bhagavā mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca:

“Này Mahānāma, hãy nói là khác!”
“nānāti, mahānāma, vadehī”ti.

Lần thứ ba Bharaṇḍu, người Kālāma nói với họ Thích Mahānāma:
Tatiyampi kho bharaṇḍu kālāmo mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca:

“Này Mahānāma, hãy nói là một!”
“ekāti, mahānāma, vadehī”ti.

Lần thứ ba, Thế Tôn nói với họ Thích Mahānāma:
Tatiyampi kho bhagavā mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca:

“Này Mahānāma, hãy nói là khác!”
“nānāti, mahānāma, vadehī”ti.

Rồi Bharaṇḍu, người Kālāma suy nghĩ như sau:
Atha kho bharaṇḍu kālāmassa etadahosi:

“Trước mặt họ Thích Mahānāma có thế lực lớn này, ta bị Sa-môn Gotama nói trái ngược cho đến lần thứ ba. Vậy ta hãy rời khỏi Kapilavatthu?”
“mahesakkhassa vatamhi mahānāmassa sakkassa sammukhā samaṇena gotamena yāvatatiyaṃ apasādito. Yannūnāhaṃ kapilavatthumhā pakkameyyan”ti.

Rồi Bharaṇḍu người Kālāma đi ra khỏi Kapilavatthu. Một sự ra đi khỏi Kapilavatthu, không bao giờ có trở lại nữa.
Atha kho bharaṇḍu kālāmo kapilavatthumhā pakkāmi. Yaṃ kapilavatthumhā pakkāmi tathā pakkantova ahosi na puna paccāgacchīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt