Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 3.128

Tăng Chi Bộ 3.128
Aṅguttara Nikāya 3.128

13. Phẩm Kusinārā
13. Kusināravagga

Thối Nát
Kaṭuviyasutta

Một thời, Thế Tôn trú ở Bārāṇasi, tại Isipatana vườn Nai
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực.
Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya bārāṇasiṃ piṇḍāya pāvisi.

Thế Tôn, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, gần cây sung, chỗ cột đàn bò, thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng túng.
Addasā kho bhagavā goyogapilakkhasmiṃ piṇḍāya caramāno aññataraṃ bhikkhuṃ rittassādaṃ bāhirassādaṃ muṭṭhassatiṃ asampajānaṃ asamāhitaṃ vibbhantacittaṃ pākatindriyaṃ.

Thấy vậy, Thế Tôn liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:
Disvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca:

“Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành thối nát.
“Mā kho tvaṃ, bhikkhu, attānaṃ kaṭuviyamakāsi.

Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra.”
Taṃ vata, bhikkhu, kaṭuviyakataṃ attānaṃ āmagandhena avassutaṃ makkhikā nānupatissanti nānvāssavissantīti, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī”ti.

Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới như vậy, cảm thấy xúc động mạnh.
Atha kho so bhikkhu bhagavatā iminā ovādena ovadito saṃvegamāpādi.

Rồi Thế Tôn, sau khi đi khất thực ở Ba-la-nại xong, sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, bảo các Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bārāṇasiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, ở đây, sau khi đắp y vào buổi sáng, Ta cầm lấy y bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực.
“Idhāhaṃ, bhikkhave, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya bārāṇasiṃ piṇḍāya pāvisiṃ.

Này các Tỷ-kheo, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, Ta thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng túng.
Addasaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, goyogapilakkhasmiṃ piṇḍāya caramāno aññataraṃ bhikkhuṃ rittassādaṃ bāhirassādaṃ muṭṭhassatiṃ asampajānaṃ asamāhitaṃ vibbhantacittaṃ pākatindriyaṃ.

Thấy vậy, Ta liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:
Disvā taṃ bhikkhuṃ etadavocaṃ:

“Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngã trở thành thối nát.
‘Mā kho tvaṃ, bhikkhu, attānaṃ kaṭuviyamakāsi.

Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngã thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng: “Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra””.
Taṃ vata bhikkhu kaṭuviyakataṃ attānaṃ āmagandhena avassutaṃ makkhikā nānupatissanti nānvāssavissantīti, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được ta giáo giới với lời giáo giới này, cảm thấy xúc động mạnh.
Atha kho, bhikkhave, so bhikkhu mayā iminā ovādena ovadito saṃvegamāpādī”ti.

Khi nghe nói như vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
Evaṃ vutte, aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, thối nát cái gì? mùi hôi thối cái gì? các loài ruồi lằng là gì?
“kiṃ nu kho, bhante, kaṭuviyaṃ? Ko āmagandho? Kā makkhikā”ti?

“Tham cầu, này các Tỷ-kheo, là thối nát;
“Abhijjhā kho, bhikkhu, kaṭuviyaṃ;

sân là mùi hôi thối;
byāpādo āmagandho;

các suy tầm ác bất thiện là ruồi lằng.
pāpakā akusalā vitakkā makkhikā.

Này các Tỷ-kheo, ai làm cho các tự ngã thối nát, đầy ứ, thoát ra mùi hôi thối, rồi mong rằng: “Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không chiếm cứ”, sự kiện như vậy không xảy ra.
Taṃ vata, bhikkhu, kaṭuviyakataṃ attānaṃ āmagandhena avassutaṃ makkhikā nānupatissanti nānvāssavissantīti, netaṃ ṭhānaṃ vijjatīti.

Tai mắt không giữ gìn,
Aguttaṃ cakkhusotasmiṃ,
Các căn không phòng hộ,
indriyesu asaṃvutaṃ;
Ruồi lằng sẽ bu đậu,
Makkhikānupatissanti,
Các tư duy tham ái.
saṅkappā rāganissitā.
Tỷ-kheo làm thối nát,
Kaṭuviyakato bhikkhu,
Ðầy ứ những mùi hôi,
āmagandhe avassuto;
Xa thay là Niết-bàn!,
Ārakā hoti nibbānā,
Chịu phần về bất hạnh.
vighātasseva bhāgavā.
Tại làng hay trong rừng,
Gāme vā yadi vāraññe,
Tự ngã không an tịnh,
aladdhā samathamattano;
Kẻ ngu và không trí,
Pareti bālo dummedho,
Ði đứng đầy ruồi lằng,
makkhikāhi purakkhato.
Ai đầy đủ giới luật,
Ye ca sīlena sampannā,
Thích tịch tịnh trí tuệ,
paññāyūpasameratā;
Sống an tịnh hạnh phúc,
Upasantā sukhaṃ senti,
Mọi ruồi lằng diệt trừ.”
nāsayitvāna makkhikā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt