Tăng Chi Bộ 4.115
Aṅguttara Nikāya 4.115
12. Phẩm Kesi
12. Kesivagga
Các Trường Hợp
Ṭhānasutta
“Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này. Thế nào là bốn?
“Cattārimāni, bhikkhave, ṭhānāni. Katamāni cattāri?
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến không lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati.
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, không đưa đến lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.
Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ý, đưa đến lợi ích cho người làm.
Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ý; không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.
Tatra, bhikkhave, yamidaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati— idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva na kattabbaṃ maññati.
Trường hợp này làm không thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm.
Yampidaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; imināpi naṃ na kattabbaṃ maññati.
Trường hợp làm không đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm.
Yampidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati; imināpi naṃ na kattabbaṃ maññati.
Ðây là trường hợp, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.
Idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva na kattabbaṃ maññati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ý, nhưng đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.
Tatra, bhikkhave, yamidaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati— imasmiṃ, bhikkhave, ṭhāne bālo ca paṇḍito ca veditabbo purisathāme purisavīriye purisaparakkame.
Và này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng:
Na, bhikkhave, bālo iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này không thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm”.
‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattatī’ti.
Người ấy không làm trường hợp này.
So taṃ ṭhānaṃ na karoti.
Do không làm trường hợp này, nên không đưa lại lợi ích cho người ấy.
Tassa taṃ ṭhānaṃ akayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.
Còn người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét rằng:
Paṇḍito ca kho, bhikkhave, iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này làm không được thích ý, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm”.
‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattatī’ti.
Người ấy làm trường hợp này.
So taṃ ṭhānaṃ karoti.
Do làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
Tassa taṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên trì của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.
Tatra, bhikkhave, yamidaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati— imasmimpi, bhikkhave, ṭhāne bālo ca paṇḍito ca veditabbo purisathāme purisavīriye purisaparakkame.
Này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng:
Na, bhikkhave, bālo iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này, làm được thích ý, nhưng trường hợp này không đem lại lợi ích cho người làm”.
‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattatī’ti.
Người ấy làm trường hợp này.
So taṃ ṭhānaṃ karoti.
Người ấy làm trường hợp này, và trường hợp này không đem lại lợi ích cho người ấy.
Tassa taṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.
Còn người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét như sau:
Paṇḍito ca kho, bhikkhave, iti paṭisañcikkhati:
“Dầu trường hợp này làm được thích ý, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm”.
‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattatī’ti.
Vị ấy không làm trường hợp này. Do không làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.
So taṃ ṭhānaṃ na karoti. Tassa taṃ ṭhānaṃ akayiramānaṃ atthāya saṃvattati.
Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ý, và đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều nên làm.
Tatra, bhikkhave, yamidaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ, tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati— idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva kattabbaṃ maññati.
Trường hợp này, làm được thích ý, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm.
Yampidaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ, imināpi naṃ kattabbaṃ maññati;
Trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm.
yampidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattati, imināpi naṃ kattabbaṃ maññati.
Trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều phải làm.
Idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva kattabbaṃ maññati.
Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này.”
Imāni kho, bhikkhave, cattāri ṭhānānī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt