Tăng Chi Bộ 4.158
Aṅguttara Nikāya 4.158
16. Phẩm Các Căn
16. Indriyavagga
Thối Ðọa
Parihānisutta
Tại đây, Tôn giả Sāriputta gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho āyasmā sāriputto bhikkhū āmantesi:
“Này các Hiền giả Tỷ-kheo!”
“āvuso bhikkhave”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả.” Các tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Sāriputta.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato sāriputtassa paccassosuṃ.
Tôn giả Sāriputta nói như sau:
Āyasmā sāriputto etadavoca:
“Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Tôi thối đọa khỏi các thiện pháp “. Ðây được Thế Tôn gọi là thối đọa. Thế nào là bốn?
“Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā cattāro dhamme attani samanupassati, niṭṭhamettha gantabbaṃ: ‘parihāyāmi kusalehi dhammehi’. Parihānametaṃ vuttaṃ bhagavatā. Katame cattāro?
Tham ái tăng thịnh, sân tăng thịnh, si tăng thịnh, đối với các vấn đề có mặt, không có mặt, không có tuệ nhãn soi thấu.
Rāgavepullattaṃ, dosavepullattaṃ, mohavepullattaṃ, gambhīresu kho panassa ṭhānāṭhānesu paññācakkhu na kamati.
Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Tôi thối đọa khỏi các thiện pháp “. Ðây được Thế Tôn gọi là thối đọa.
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā ime cattāro dhamme attani samanupassati, niṭṭhamettha gantabbaṃ: ‘parihāyāmi kusalehi dhammehi’. Parihānametaṃ vuttaṃ bhagavatā.
Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Tôi không thối đọa khỏi các thiện pháp “. Ðây được Thế Tôn gọi là không thối đọa. Thế nào là bốn?
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā cattāro dhamme attani samanupassati, niṭṭhamettha gantabbaṃ: ‘na parihāyāmi kusalehi dhammehi’. Aparihānametaṃ vuttaṃ bhagavatā. Katame cattāro?
Tham ái giảm thiểu, sân giảm thiểu, si giảm thiểu. Ðối với các vấn đề có mặt, không có mặt, có tuệ nhãn soi thấu.
Rāgatanuttaṃ, dosatanuttaṃ, mohatanuttaṃ, gambhīresu kho panassa ṭhānāṭhānesu paññācakkhu kamati.
Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào thấy trên tự thân có bốn pháp này, cần phải đi đến kết luận rằng: “Ta không thối đọa khỏi các thiện pháp “. Ðây được Thế Tôn gọi là không thối đọa.
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā ime cattāro dhamme attani samanupassati, niṭṭhamettha gantabbaṃ: ‘na parihāyāmi kusalehi dhammehi’. Aparihānametaṃ vuttaṃ bhagavatā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt