Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 4.159

Tăng Chi Bộ 4.159
Aṅguttara Nikāya 4.159

16. Phẩm Các Căn
16. Indriyavagga

Tỷ-Kheo Ni
Bhikkhunīsutta

Như vầy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Tôn giả Ānanda trú ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita. Rồi một Tỷ-kheo ni gọi một người và nói:
ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Atha kho aññatarā bhikkhunī aññataraṃ purisaṃ āmantesi:

“Hãy đến đây, thưa Ông. Hãy đi đến Tôn giả Ānanda, và nhân danh tôi, với đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda và nói:
“ehi tvaṃ, ambho purisa, yenayyo ānando tenupasaṅkama; upasaṅkamitvā mama vacanena ayyassa ānandassa pāde sirasā vanda:

‘Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo-ni tên như vầy bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh.
‘itthannāmā, bhante, bhikkhunī ābādhikinī dukkhitā bāḷhagilānā.

Tỷ-kheo-ni với đầu đảnh lễ Tôn giả Ānanda và nói như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả đi đến trú xứ của Tỷ-kheo-ni, đi đến Tỷ-kheo-ni ấy vì lòng từ mẫn”.
Sā ayyassa ānandassa pāde sirasā vandatī’ti. Evañca vadehi: ‘sādhu kira, bhante, ayyo ānando yena bhikkhunupassayo yena sā bhikkhunī tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’”ti.

“Thưa vâng, nữ Tôn giả”. Người ấy vâng đáp Tỷ-kheo-ni ấy, đi đến Tôn giả Ānanda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ānanda, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, người ấy nói với Tôn giả Ānanda:
“Evaṃ, ayye”ti kho so puriso tassā bhikkhuniyā paṭissutvā yenāyasmā ānando tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ ānandaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so puriso āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Thưa Tôn giả, Tỷ-kheo-ni tên này bị bệnh, khổ đau, bị trọng bệnh, với đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda, và nói như sau: “Thưa Tôn giả, lành thay, nếu Tôn giả đi đến trú xứ của Tỷ-kheo-ni, đi đến Tỷ-kheo-ni ấy vì lòng từ mẫn”.”
“Itthannāmā, bhante, bhikkhunī ābādhikinī dukkhitā bāḷhagilānā. Sā āyasmato ānandassa pāde sirasā vandati, evañca vadeti: ‘sādhu kira, bhante, āyasmā ānando yena bhikkhunupassayo yena sā bhikkhunī tenupasaṅkamatu anukampaṃ upādāyā’”ti.

Tôn giả Ānanda im lặng nhận lời.
Adhivāsesi kho āyasmā ānando tuṇhībhāvena.

Rồi Tôn giả Ānanda, đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ Tỷ-kheo-ni. Tỷ-kheo-ni ấy thấy Tôn giả Ānanda từ xa đi đến. Sau khi thấy, liền trùm từ đầu đến chân và nằm trên giường.
Atha kho āyasmā ānando nivāsetvā pattacīvaramādāya yena bhikkhunupassayo yena sā bhikkhunī tenupasaṅkami. Addasā kho sā bhikkhunī āyasmantaṃ ānandaṃ dūratova āgacchantaṃ. Disvā sasīsaṃ pārupitvā mañcake nipajji.

Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Tỷ-kheo-ni ấy, sau khi đến, ngồi trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi, Tôn giả Ānanda nói với Tỷ-kheo-ni ấy:
Atha kho āyasmā ānando yena sā bhikkhunī tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho āyasmā ānando taṃ bhikkhuniṃ etadavoca:

“Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn. Đồ ăn cần phải đoạn tận.
“Āhārasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo āhāraṃ nissāya. Āhāro pahātabbo.

Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái. Ái cần phải đoạn tận.
Taṇhāsambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo taṇhaṃ nissāya. Taṇhā pahātabbā.

Này chị, thân này do kiêu mạn được tác thành, y cứ vào kiêu mạn. Kiêu mạn cần phải đoạn tận.
Mānasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo mānaṃ nissāya. Māno pahātabbo.

Này chị, thân này do dâm dục được tác thành, y cứ vào dâm dục. Dâm dục, sự phá đổ cây cầu được Thế Tôn nói đến.
Methunasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo. Methune ca setughāto vutto bhagavatā.

‘Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn. Đồ ăn cần phải đoạn tận’. Như vậy, được nói đến. Chính do duyên này được nói đến?
‘Āhārasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo āhāraṃ nissāya. Āhāro pahātabbo’ti, iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Này chị, ở đây, Tỷ-kheo như lý quán sát thọ dụng món ăn:
Idha, bhagini, bhikkhu paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti:

Không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, mà chỉ để thân này được sống lâu, và được bảo dưỡng, để thân này khỏi bị thương hại, để hỗ trợ Phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy, ta diệt trừ cảm thọ cũ và không cho khởi lên cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được an ổn”.
‘neva davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya. Iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi. Yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsuvihāro cā’ti.

Vị ấy sau một thời gian, dầu cho y cứ vào đồ ăn, vẫn không đắm trước đồ ăn.
So aparena samayena āhāraṃ nissāya āhāraṃ pajahati.

Này chị, thân này do đồ ăn được tác thành, y cứ vào đồ ăn; đồ ăn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, chính do duyên này được nói đến.
‘Āhārasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo āhāraṃ nissāya āhāro pahātabbo’ti, iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

‘Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến. Y cứ vào gì được nói đến như vậy?’
‘Taṇhāsambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo taṇhaṃ nissāya. Taṇhā pahātabbā’ti, iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, này chị, Tỷ-kheo nghe: “Tỷ-kheo tên này do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.
Idha, bhagini, bhikkhu suṇāti: ‘itthannāmo kira bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’ti.

Vị ấy suy nghĩ: “Thật vậy, ta cũng do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.
Tassa evaṃ hoti: ‘kudāssu nāma ahampi āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissāmī’ti.

Vị ấy, sau một thời gian, dầu y cứ vào ái, đoạn tận ái.
So aparena samayena taṇhaṃ nissāya taṇhaṃ pajahati.

Này chị, thân này do ái được tác thành, y cứ vào ái; ái cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, do duyên này được nói đến.
‘Taṇhāsambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo taṇhaṃ nissāya taṇhā pahātabbā’ti, iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

Này chị, thân này do kiêu mạn được tác thành, y cứ vào kiêu mạn; kiêu mạn cần phải đoạn tận. Như vậy, được nói đến, y cứ vào gì được nói đến như vậy?
‘Mānasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo mānaṃ nissāya. Māno pahātabbo’ti, iti kho panetaṃ vuttaṃ. Kiñcetaṃ paṭicca vuttaṃ?

Ở đây, này chị, Tỷ-kheo nghe: “Tỷ-kheo tên này do đoạn diệt các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.
Idha, bhagini, bhikkhu suṇāti: ‘itthannāmo kira bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’ti.

Vị ấy suy nghĩ: “Thật vậy, Tôn giả tên này do đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự mình với thắng trí, ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát”.
Tassa evaṃ hoti: ‘so hi nāma āyasmā āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharissati;

Vị ấy suy nghĩ: “Vậy sao ta không như vậy?”
kimaṅgaṃ panāhan’ti.

Vị ấy, sau một thời gian, dầu y cứ vào kiêu mạn, đoạn tận kiêu mạn.
So aparena samayena mānaṃ nissāya mānaṃ pajahati.

Này chị, thân này do kiêu mạn tác thành, y cứ vào kiêu mạn; kiêu mạn cần phải đọan tận.
‘Mānasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo, mānaṃ nissāya māno pahātabbo’ti,

Như vậy được nói đến, do duyên này được nói đến.
iti yaṃ taṃ vuttaṃ idametaṃ paṭicca vuttaṃ.

‘Này chị, thân này do dâm dục tác thành, dâm dục, sự phá đổ cây cầu được Thế Tôn nói đến.’
Methunasambhūto ayaṃ, bhagini, kāyo. Methune ca setughāto vutto bhagavatā”ti.

Rồi Tỷ-kheo-ni ấy, từ giường đứng dậy, đắp thượng y vào một bên vai, với đầu đảnh lễ chân Tôn giả Ānanda, và thưa với Tôn giả Ānanda:
Atha kho sā bhikkhunī mañcakā vuṭṭhahitvā ekaṃsaṃ uttarāsaṅgaṃ karitvā āyasmato ānandassa pādesu sirasā nipatitvā āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Một lỗi con đã vi phạm, thưa Tôn giả, vì ngu đần, vì si mê, vì bất thiện. Thưa Tôn giả, mong Tôn giả Ānanda chấp nhận cho con tội lỗi này là một tội lỗi để con ngăn ngừa trong tương lai !
“accayo maṃ, bhante, accagamā, yathābālaṃ yathāmūḷhaṃ yathāakusalaṃ, yāhaṃ evamakāsiṃ. Tassā me, bhante, ayyo ānando accayaṃ accayato paṭiggaṇhātu, āyatiṃ saṃvarāyā”ti.

“Thật vậy, này chị, thật sự chị đã phạm tội vì ngu đần, vì si mê, vì bất thiện. Chị đã làm như vậy.
“Taggha taṃ, bhagini, accayo accagamā, yathābālaṃ yathāmūḷhaṃ yathāakusalaṃ, yā tvaṃ evamakāsi.

Này chị, vì Chị thấy phạm tội là phạm tội, và như Pháp phát lộ, nên chúng tôi chấp nhận tội ấy cho chị.
Yato ca kho tvaṃ, bhagini, accayaṃ accayato disvā yathādhammaṃ paṭikarosi, taṃ te mayaṃ paṭiggaṇhāma.

Này chị, như vậy Luật của bậc Thánh được tăng trưởng khi thấy được phạm tội là phạm tội, và như pháp phát lộ để ngăn giữ trong tương lai.”
Vuddhi hesā, bhagini, ariyassa vinaye yo accayaṃ accayato disvā yathādhammaṃ paṭikaroti āyatiṃ saṃvaraṃ āpajjatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt