Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 4.175

Tăng Chi Bộ 4.175
Aṅguttara Nikāya 4.175

18. Phẩm Tư Tâm Sở
18. Sañcetaniyavagga

Upavāṇa
Upavāṇasutta

Rồi Tôn giả Upavāna đi đến Tôn giả Sāriputta, sau khi đến, nói với Tôn giả Sāriputta … ngồi xuống một bên.
Atha kho āyasmā upavāṇo yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā upavāṇo āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca:

“Thưa Hiền giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) nhờ minh hay không?”
“Kiṃ nu kho, āvuso sāriputta, vijjāyantakaro hotī”ti?

“Thưa không, này Hiền giả.”
“No hidaṃ, āvuso”.

“Thưa Hiền giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) nhờ hạnh hay không?”
“Kiṃ panāvuso sāriputta, caraṇenantakaro hotī”ti?

“Thưa không, này Hiền giả.”
“No hidaṃ, āvuso”.

“Thưa Hiền giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) nhờ minh và hạnh hay không?”
“Kiṃ panāvuso sāriputta, vijjācaraṇenantakaro hotī”ti?

“Thưa không, này Hiền giả.”
“No hidaṃ, āvuso”.

“Thưa Hiền giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) ngoài minh và hạnh hay không?”
“Kiṃ panāvuso sāriputta, aññatra vijjācaraṇenantakaro hotī”ti?

“Thưa không, này Hiền giả.”
“No hidaṃ, āvuso”.

“Khi được hỏi: “Thưa Tôn giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) nhờ minh hay không?”, Tôn giả nói: “Thưa không, này Hiền giả”.
“‘Kiṃ nu kho, āvuso sāriputta, vijjāyantakaro hotī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.

Khi được hỏi: “Thưa Tôn giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) nhờ hạnh hay không?”, Tôn giả nói: “Thưa không, này Hiền giả”.
‘Kiṃ panāvuso sāriputta, caraṇenantakaro hotī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.

Khi được hỏi: “Thưa Tôn giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) nhờ minh và hạnh hay không?”, Tôn giả nói: “Thưa không, này Hiền giả”.
‘Kiṃ panāvuso sāriputta, vijjācaraṇenantakaro hotī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.

Khi được hỏi: “Thưa Tôn giả Sāriputta, có thể có người chấm dứt (đau khổ) ngoài minh và hạnh hay không?”, Tôn giả nói: “Thưa không, này Hiền giả”.
‘Kiṃ panāvuso sāriputta, aññatra vijjācaraṇenantakaro hotī’ti, iti puṭṭho samāno: ‘no hidaṃ, āvuso’ti vadesi.

Như thế nào, thưa Tôn giả, (cần phải hiểu) có người chấm dứt (đau khổ)?”
Yathā kathaṃ panāvuso, antakaro hotī”ti?

“Này Hiền giả, nếu có người chấm dứt (đau khổ) nhờ minh, thời người ấy vẫn là người chấm dứt (đau khổ) với chấp thủ.
“Vijjāya ce, āvuso, antakaro abhavissa, saupādānova samāno antakaro abhavissa.

Này Hiền giả, nếu có người chấm dứt (đau khổ) nhờ hạnh, thời người ấy vẫn là người chấm dứt (đau khổ) với chấp thủ.
Caraṇena ce, āvuso, antakaro abhavissa, saupādānova samāno antakaro abhavissa.

Này Hiền giả, nếu có người chấm dứt (đau khổ) nhờ minh và hạnh, thời người ấy vẫn là người chấm dứt (đau khổ) với chấp thủ.
Vijjācaraṇena ce, āvuso, antakaro abhavissa, saupādānova samāno antakaro abhavissa.

Này Hiền giả, nếu có người chấm dứt (đau khổ) ngoài minh và hạnh, thời một người phàm phu có thể là người chấm dứt (đau khổ).
Aññatra vijjācaraṇena ce, āvuso, antakaro abhavissa, puthujjano antakaro abhavissa.

Này Hiền giả, người phàm phu không có minh và hạnh.
Puthujjano hi, āvuso, aññatra vijjācaraṇena.

Thưa Hiền giả, người phàm phu không có minh và hạnh nên không như thật thấy và biết.
Caraṇavipanno kho, āvuso, yathābhūtaṃ na jānāti na passati.

Nhưng nếu có minh và hạnh đầy đủ như thật thấy và biết.
Caraṇasampanno yathābhūtaṃ jānāti passati.

Như thật thấy và biết, là người chấm dứt (đau khổ).”
Yathābhūtaṃ jānaṃ passaṃ antakaro hotī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt