Tăng Chi Bộ 4.188
Aṅguttara Nikāya 4.188
19. Phẩm Chiến Sĩ
19. Brāhmaṇavagga
Upaka
Upakasutta
Một thời, Thế Tôn trú ở Rājagaha, tại Gijjhakūta. Rồi Upaka con trai của Maṇḍikā đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Upaka con trai của Maṇḍikā bạch Thế Tôn:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā rājagahe viharati gijjhakūṭe pabbate. Atha kho upako maṇḍikāputto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho upako maṇḍikāputto bhagavantaṃ etadavoca:
Bạch Thế Tôn, con nói như sau, con thấy như sau: “Ai bắt đầu mắng nhiếc người khác và tiếp tục như vậy, người ấy về mọi phương diện không thể bênh vực lập trường của mình, do không thể bênh vực lập trường của mình, người ấy đáng bị quở trách, đáng bị phạm tội”.
“Ahañhi, bhante, evaṃvādī evaṃdiṭṭhi: ‘yo koci parūpārambhaṃ vatteti, parūpārambhaṃ vattento sabbo so na upapādeti. Anupapādento gārayho hoti upavajjo’”ti.
“Này Upaka, ai bắt đầu mắng nhiếc người khác và tiếp tục như vậy, người ấy về mọi phương diện không thể bênh vực lập trường của mình, do không thể bênh vực lập trường của mình, người ấy đáng bị quở trách, đáng bị phạm tội!
“Parūpārambhañce, upaka, vatteti parūpārambhaṃ vattento na upapādeti, anupapādento gārayho hoti upavajjo.
Này Upaka, Ông bắt đầu mắng nhiếc người khác và tiếp tục như vậy, Ông về mọi phương diện không thể bênh vực lập trường của mình, do không thể bênh vực lập trường của mình, Ông đáng bị quở trách, đáng bị phạm tội!”
Tvaṃ kho, upaka, parūpārambhaṃ vattesi, parūpārambhaṃ vattento na upapādesi, anupapādento gārayho hosi upavajjo”ti.
“Ví như, bạch Thế Tôn, một người bắt con vật của mình săn với một bẫy sập lớn, khi con vật thò đầu ra.
“Seyyathāpi, bhante, ummujjamānakaṃyeva mahatā pāsena bandheyya;
Cũng vậy, con bị Thế Tôn bắt với cái bẫy sập lớn bằng chữ khi con vừa mới mở miệng (khi con vừa mới thò đầu ra).”
evamevaṃ kho ahaṃ, bhante, ummujjamānakoyeva bhagavatā mahatā vādapāsena baddho”ti.
Này Upaka, “Ðây là bất thiện”.
“Idaṃ akusalanti kho, upaka, mayā paññattaṃ.
Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Như Lai: “Ðây là bất thiện!”
Tattha aparimāṇā padā aparimāṇā byañjanā aparimāṇā tathāgatassa dhammadesanā—itipidaṃ akusalanti.
Này Upaka, bất thiện này cần phải đoạn tận.
Taṃ kho panidaṃ akusalaṃ pahātabbanti kho, upaka, mayā paññattaṃ.
Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Như Lai: “Ðây, pháp bất thiện này cần phải đoạn tận”.
Tattha aparimāṇā padā aparimāṇā byañjanā aparimāṇā tathāgatassa dhammadesanā—itipidaṃ akusalaṃ pahātabbanti.
“Ðây là thiện”, này Upaka. Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Thế Tôn: “Ðây là pháp thiện”.
Idaṃ kusalanti kho, upaka, mayā paññattaṃ. Tattha aparimāṇā padā aparimāṇā byañjanā aparimāṇā tathāgatassa dhammadesanā—itipidaṃ kusalanti.
Thiện pháp này cần phải tu tập. Này Upaka, Ta nêu rõ như vậy với vô lượng câu, với vô lượng chữ, với vô lượng thuyết pháp của Thế Tôn: “Ðây, pháp thiện này cần phải tu tập”.
Taṃ kho panidaṃ kusalaṃ bhāvetabbanti kho, upaka, mayā paññattaṃ. Tattha aparimāṇā padā aparimāṇā byañjanā aparimāṇā tathāgatassa dhammadesanā—itipidaṃ kusalaṃ bhāvetabban”ti.
Rồi Upaka con trai của Maṇḍikā hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về phía Ngài, rồi đi đến Ajātasattu con trai của công chúa Vedehi, vua nước Magadha. Sau khi đến, Upaka tường thuật lại cho Ajātasattu con trai của công chúa Vedehi, vua nước Magadha nghe tất cả cuộc đàm luận với Thế Tôn.
Atha kho upako maṇḍikāputto bhagavato bhāsitaṃ abhinanditvā anumoditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā yena rājā māgadho ajātasattu vedehiputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā yāvatako ahosi bhagavatā saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ rañño māgadhassa ajātasattussa vedehiputtassa ārocesi.
Ðược nghe nói như vậy, Ajātasattu con trai của công chúa Vedehi, vua nước Magadha phẫn nộ, không hoan hỷ nói với Upaka con trai của Maṇḍikā:
Evaṃ vutte, rājā māgadho ajātasattu vedehiputto kupito anattamano upakaṃ maṇḍikāputtaṃ etadavoca:
“Thật là độc hại, đứa trẻ làm muối này! Thật là lắm mồm, thật là kẻ liều mạng. Nghĩ rằng nó có thể nhiếc mắng Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác.
“yāva dhaṃsī vatāyaṃ loṇakāradārako yāva mukharo yāva pagabbo yatra hi nāma taṃ bhagavantaṃ arahantaṃ sammāsambuddhaṃ āsādetabbaṃ maññissati;
Hãy đi đi, này Upaka! Chớ để Ta thấy Ông nữa!”
apehi tvaṃ, upaka, vinassa, mā taṃ addasan”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt