Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 4.67

Tăng Chi Bộ 4.67
Aṅguttara Nikāya 4.67

7. Phẩm Nghiệp Công Đức
7. Pattakammavagga

Vua Các Loài Rắn
Ahirājasutta

Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavana, khu vườn ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, một Tỷ-kheo ở Sāvatthī bị rắn cắn chết.
Tena kho pana samayena sāvatthiyaṃ aññataro bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṅkato hoti.

Rồi nhiều Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho sambahulā bhikkhū yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te bhikkhū bhagavantaṃ etadavocuṃ:

“Ở đây, bạch Thế Tôn, một Tỷ-kheo ở Sāvatthī bị rắn cắn đã mệnh chung.”
“idha, bhante, sāvatthiyaṃ aññataro bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṅkato”ti.

“Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn.
“Na hi nūna so, bhikkhave, bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari.

Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung.
Sace hi so, bhikkhave, bhikkhu cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, na hi so, bhikkhave, bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṃ kareyya.

Thế nào là bốn gia đình vua các loài rắn?
Katamāni cattāri?

Gia đình vua các loài rắn Virūpakkha, gia đình vua các loài rắn Erāpatha, gia đình vua các loài rắn Chabyāputta, gia đình vua các loài rắn Kaṇhāgotamaka;
Virūpakkhaṃ ahirājakulaṃ, erāpathaṃ ahirājakulaṃ, chabyāputtaṃ ahirājakulaṃ, kaṇhāgotamakaṃ ahirājakulaṃ.

Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo với từ tâm đã không hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này.
Na hi nūna so, bhikkhave, bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phari.

Nếu Tỷ-kheo ấy, này các Tỷ-kheo, với từ tâm có thể hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn, thời này các Tỷ-kheo, vị ấy có thể không bị rắn cắn mà mạng chung.
Sace hi so, bhikkhave, bhikkhu imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena phareyya, na hi so, bhikkhave, bhikkhu ahinā daṭṭho kālaṃ kareyya.

Này các Tỷ-kheo, Ta cho phép với từ tâm hướng đến bốn gia đình vua các loài rắn này để tự bảo vệ, để tự hộ trì, để tự che chở.
Anujānāmi, bhikkhave, imāni cattāri ahirājakulāni mettena cittena pharituṃ attaguttiyā attarakkhāya attaparittāyāti.

Ta hãy có từ tâm,
Với Virūpakkha,
Virūpakkhehi me mettaṃ,
Ta hãy có từ tâm,
Với Erāpatha,
Mettaṃ erāpathehi me;
Ta hãy có từ tâm,
Với Chabyāputta,
Chabyāputtehi me mettaṃ,
Ta hãy có từ tâm,
Với Kaṇhāgotamaka,
Mettaṃ kaṇhāgotamakehi ca.
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài không chân,
Apādakehi me mettaṃ,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài hai chân,
mettaṃ dvipādakehi me;
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài bốn chân,
Catuppadehi me mettaṃ,
Ta hãy có từ tâm,
Với các loài nhiều chân,
mettaṃ bahuppadehi me.
Mong rằng loài không chân,
Không có làm hại ta,
Mā maṃ apādako hiṃsi,
Mong rằng loài hai chân,
Không có làm hại ta,
mā maṃ hiṃsi dvipādako;
Mong rằng loài bốn chân,
Không có làm hại ta,
Mā maṃ catuppado hiṃsi,
Mong rằng loài nhiều chân,
Không có làm hại ta,
mā maṃ hiṃsi bahuppado.
Mọi chúng sanh, hữu tình
Sabbe sattā sabbe pāṇā,
Toàn thể mọi sinh vật,
sabbe bhūtā ca kevalā;
Mong chúng thấy hiền thiện,
Sabbe bhadrāni passantu,
Chớ đi đến điều ác.
mā kañci pāpamāgamā.
Ðức Phật là vô lượng,
Appamāṇo buddho,
Đức Pháp là vô lượng,
Appamāṇo dhammo;
Đức Tăng là vô lượng,
Appamāṇo saṅgho,
Có lượng là các loài bò sát,
Pamāṇavantāni sarīsapāni.
Các loài rắn, bò cạp,
Các loài một trăm chân,
Ahivicchikā satapadī,
Các loại nhện giăng tơ,
Thằn lằn và loài chuột,
Uṇṇanābhī sarabū mūsikā;
Ta đã làm sự hộ trì.
Ta đã làm sự che chở.
Katā me rakkhā katā me parittā,
Mong các loài hữu tình,
Hãy rời đi nơi khác,
Paṭikkamantu bhūtāni;
Ta đảnh lễ đức Thế Tôn.
Sohaṃ namo bhagavato,
Ta đảnh lễ bảy vị Chánh Ðẳng Giác.”
Namo sattannaṃ sammāsambuddhānan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt