Tăng Chi Bộ 5.169
Aṅguttara Nikāya 5.169
17. Phẩm Hiềm Hận
17. Āghātavagga
Ðưa Ðến Biết
Khippanisantisutta
1. Rồi Tôn giả Ānanda đi đến Tôn giả Sāriputta; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sāriputta những lời chào đón hỏi thăm. Sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ānanda thưa với Tôn giả Sāriputta:
Atha kho āyasmā ānando yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā ānando āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca:
“2. Cho đến như thế nào, thưa Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết đối với thiện pháp, sự nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ nhiều và không quên điều đã nắm giữ.”
“Kittāvatā nu kho, āvuso sāriputta, bhikkhu khippanisanti ca hoti, kusalesu dhammesu suggahitaggāhī ca, bahuñca gaṇhāti, gahitañcassa nappamussatī”ti?
“Tôn giả Ānanda là vị nghe nhiều. Mong Tôn giả Ānanda hãy nói lên.
“Āyasmā kho ānando bahussuto. Paṭibhātu āyasmantaṃyeva ānandan”ti.
“Vậy thưa Hiền giả Sāriputta, hãy khéo tác ý, tôi sẽ nói.”
“Tenahāvuso sāriputta, suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả,” Tôn giả Sāriputta vâng đáp Tôn giả Ānanda.
“Evamāvuso”ti kho āyasmā sāriputto āyasmato ānandassa paccassosi.
Tôn giả Ānanda nói như sau:
Āyasmā ānando etadavoca:
“3. Ở đây, thưa Hiền giả Sāriputta, có Tỷ-kheo thiện xảo về ý nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về liên hệ trước sau.
“Idhāvuso sāriputta, bhikkhu atthakusalo ca hoti, dhammakusalo ca, byañjanakusalo ca, niruttikusalo ca, pubbāparakusalo ca.
Cho đến như vậy, thưa Hiền giả Sāriputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết đối với các thiện pháp, sự nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ nhiều, và không quên điều đã nắm giữ.”
Ettāvatā kho, āvuso sāriputta, bhikkhu khippanisanti ca hoti kusalesu dhammesu, suggahitaggāhī ca, bahuñca gaṇhāti, gahitañcassa nappamussatī”ti.
“Thật là vi diệu, thưa Hiền giả! Thật là hy hữu, thưa Hiền giả!
“Acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso.
Khó nói thay, điều này được Tôn giả Ānanda nói lên.
Yāva subhāsitañcidaṃ āyasmatā ānandena.
Chúng tôi tin rằng Tôn giả Ānanda thành tựu năm pháp này:
Imehi ca mayaṃ pañcahi dhammehi samannāgataṃ āyasmantaṃ ānandaṃ dhārema:
‘Tôn giả Ānanda thiện xảo về nghĩa, thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về liên hệ trước sau.’”
‘āyasmā ānando atthakusalo dhammakusalo byañjanakusalo niruttikusalo pubbāparakusalo’”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt