Tăng Chi Bộ 5.33
Aṅguttara Nikāya 5.33
4. Phẩm Sumanā
4. Sumanavagga
Uggaha, Người Gia Chủ
Uggahasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Bhaddiya, trong rừng Jātiyā. Rồi Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka bạch Thế Tôn:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bhaddiye viharati jātiyā vane. Atha kho uggaho meṇḍakanattā yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho uggaho meṇḍakanattā bhagavantaṃ etadavoca:
2. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nhận lời mời của con, ngày mai đến dùng bữa ăn, với Thế Tôn là người thứ tư.
“Adhivāsetu me, bhante, bhagavā svātanāya attacatuttho bhattan”ti.
Thế Tôn im lặng nhận lời. Rồi Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka biết được Thế Tôn đã nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.
Adhivāsesi bhagavā tuṇhībhāvena. Atha kho uggaho meṇḍakanattā bhagavato adhivāsanaṃ viditvā uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.
3. Rồi Thế Tôn, sau khi đêm ấy đã mãn, vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi đến trú xứ của Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka; sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho bhagavā tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena uggahassa meṇḍakanattuno nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Rồi Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka, với tay của mình thân mời và làm cho thỏa mãn Thế Tôn với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
Atha kho uggaho meṇḍakanattā bhagavantaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.
Rồi Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka, sau khi Thế Tôn dùng bữa ăn xong, tay rời khỏi bát, liền ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Uggaha, cháu trai của Meṇḍaka bạch Thế Tôn:
Atha kho uggaho meṇḍakanattā bhagavantaṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho uggaho meṇḍakanattā bhagavantaṃ etadavoca:
Những đứa con gái này của con, bạch Thế Tôn, sẽ đi về nhà chồng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy giáo giới chúng. Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy khuyên dạy chúng, để chúng được hạnh phúc an lạc lâu dài.
“imā me, bhante, kumāriyo patikulāni gamissanti. Ovadatu tāsaṃ, bhante, bhagavā; anusāsatu tāsaṃ, bhante, bhagavā, yaṃ tāsaṃ assa dīgharattaṃ hitāya sukhāyā”ti.
4. Rồi Thế Tôn nói với các người con gái ấy:
Atha kho bhagavā tā kumāriyo etadavoca:
Này các thiếu nữ, các Con hãy học tập như sau:
“tasmātiha, kumāriyo, evaṃ sikkhitabbaṃ:
“Ðối với những người chồng nào, mẹ cha cưới cho các con, vì muốn lợi ích, vì tìm hạnh phúc, vì lòng thương tưởng, vì lòng từ mẫn khởi lên, đối với người chồng ấy, chúng ta sẽ thức dậy trước, chúng ta sẽ đi ngủ sau cùng, vui lòng nhận làm mọi công việc, xử sự đẹp lòng, lời nói dễ thương.”
‘yassa vo mātāpitaro bhattuno dassanti atthakāmā hitesino anukampakā anukampaṃ upādāya, tassa bhavissāma pubbuṭṭhāyiniyo pacchānipātiniyo kiṅkārapaṭissāviniyo manāpacāriniyo piyavādiniyo’ti.
Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Evañhi vo, kumāriyo, sikkhitabbaṃ.
5. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, kumāriyo, evaṃ sikkhitabbaṃ:
“Những ai, chồng ta kính trọng, như mẹ, cha, Sa-môn, Bà-la-môn, chúng ta sẽ tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và khi họ đến, chúng ta sẽ phục vụ họ chỗ ngồi và nước.”
‘ye te bhattu garuno bhavissanti mātāti vā pitāti vā samaṇabrāhmaṇāti vā, te sakkarissāma garuṃ karissāma mānessāma pūjessāma abbhāgate ca āsanodakena paṭipūjessāmā’ti.
Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Evañhi vo, kumāriyo, sikkhitabbaṃ.
6. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, kumāriyo, evaṃ sikkhitabbaṃ:
“Phàm có những công việc trong nhà, như đan lát, may vá. Ở đây, chúng ta sẽ phải thông thạo, không được biếng nhác, tự tìm cách làm, vừa đủ để tự làm, vừa đủ để sắp đặt người làm.”
‘ye te bhattu abbhantarā kammantā uṇṇāti vā kappāsāti vā, tattha dakkhā bhavissāma analasā, tatrupāyāya vīmaṃsāya samannāgatā, alaṃ kātuṃ alaṃ saṃvidhātun’ti.
Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Evañhi vo, kumāriyo, sikkhitabbaṃ.
7. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, kumāriyo, evaṃ sikkhitabbaṃ:
“Trong nhà chồng, phàm có nô tỳ nào, hay người đưa tin, hay người thợ, chúng ta sẽ phải biết công việc nào họ đã làm; chúng ta sẽ phải biết công việc nào họ chưa làm. Chúng ta sẽ phải biết ai bị bịnh, ai khoẻ, ai không khoẻ. Chúng ta sẽ phân chia đồ ăn, có loại cứng, loại mềm cho họ tuỳ theo phần ăn của mình”.
‘yo so bhattu abbhantaro antojano dāsāti vā pessāti vā kammakarāti vā, tesaṃ katañca katato jānissāma akatañca akatato jānissāma, gilānakānañca balābalaṃ jānissāma, khādanīyaṃ bhojanīyañcassa paccaṃsena saṃvibhajissāmā’ti.
Như vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập.
Evañhi vo, kumāriyo, sikkhitabbaṃ.
8. Do vậy, này các Thiếu nữ, các Con cần phải học tập như sau:
Tasmātiha, kumāriyo, evaṃ sikkhitabbaṃ:
“Phàm có tiền bạc, lúa gạo, vàng và bạc mà chồng đem về, chúng ta cần phải phòng hộ, bảo vệ chúng. Chúng ta sẽ cất giữ để không bị ăn trộm, không tiêu dùng quá tay, không lãng phí hoặc làm mất”.
‘yaṃ bhattā āharissati dhanaṃ vā dhaññaṃ vā rajataṃ vā jātarūpaṃ vā, taṃ ārakkhena guttiyā sampādessāma, tattha ca bhavissāma adhuttī athenī asoṇḍī avināsikāyo’ti.
Như vậy, này các Thiếu nữ, các con cần phải học tập.
Evañhi vo, kumāriyo, sikkhitabbaṃ.
Thành tựu năm pháp này, này các Thiếu nữ, người đàn bà, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cộng trú với chư Thiên có thân khả ái.
Imehi kho, kumāriyo, pañcahi dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā manāpakāyikānaṃ devānaṃ sahabyataṃ upapajjatīti.
Hãy thường thương yêu chồng,
Luôn nỗ lực cố gắng,
Người đem lại lạc thú,
Chớ khinh thường người chồng.
Yo naṃ bharati sabbadā,
niccaṃ ātāpi ussuko;
Sabbakāmaharaṃ posaṃ,
bhattāraṃ nātimaññati.
Chớ làm chồng không vui,
Chớ làm chồng tức tối,
Với những lời ganh tị.
Chồng cung kính những ai,
Hãy đảnh lễ tất cả,
Vì nàng, người có trí.
Na cāpi sotthi bhattāraṃ,
issācārena rosaye;
Bhattu ca garuno sabbe,
paṭipūjeti paṇḍitā.
Hoạt động thật nhanh nhẹn,
Giữa các người làm việc,
Xử sự thật khả ái,
Biết giữ tài sản chồng.
Uṭṭhāhikā analasā,
saṅgahitaparijjanā;
Bhattu manāpaṃ carati,
sambhataṃ anurakkhati.
Người vợ xử như vậy,
Làm thỏa mãn ước vọng,
Ưa thích của người chồng,
Sẽ được sanh tại chỗ,
Các chư thiên khả ái.
Yā evaṃ vattatī nārī,
bhattuchandavasānugā;
Manāpā nāma te devā,
yattha sā upapajjatī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt