Tăng Chi Bộ 5.50
Aṅguttara Nikāya 5.50
5. Phẩm Vua Muṇḍa
5. Muṇḍarājavagga
Tôn Giả Narada
Nāradasutta
1. Một thời, Tôn giả Nārada trú ở Pāṭaliputta tại khu vườn Kukkuta (Kê Viên). Lúc bấy giờ, hoàng hậu Bhaddā của vua Muṇḍa mệnh chung, được ái luyến thương yêu.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā nārado pāṭaliputte viharati kukkuṭārāme. Tena kho pana samayena muṇḍassa rañño bhaddā devī kālaṅkatā hoti piyā manāpā.
Vì quá thương yêu hoàng hậu Bhaddā, vua không tắm rửa, không thoa dầu, không ăn uống, không lo các công việc — ngày đêm sầu muộn, ôm ấp thân của hoàng hậu Bhaddā. Rồi vua Muṇḍa bảo Piyaka, người giữ kho bạc:
So bhaddāya deviyā kālaṅkatāya piyāya manāpāya neva nhāyati na vilimpati na bhattaṃ bhuñjati na kammantaṃ payojeti—rattindivaṃ bhaddāya deviyā sarīre ajjhomucchito. Atha kho muṇḍo rājā piyakaṃ kosārakkhaṃ āmantesi:
– Này Piyaka, hãy đặt thân hoàng hậu Bhaddā vào trong một hòm sắt đựng đầy dầu, và đậy lại với một hòm bằng sắt khác; nhờ vậy chúng ta có thể thấy thân hoàng hậu Bhaddā lâu hơn.
“tena hi, samma piyaka, bhaddāya deviyā sarīraṃ āyasāya teladoṇiyā pakkhipitvā aññissā āyasāya doṇiyā paṭikujjatha, yathā mayaṃ bhaddāya deviyā sarīraṃ cirataraṃ passeyyāmā”ti.
– “Thưa vâng, tâu Ðại vương.” Piyaka, người giữ kho bạc vâng đáp vua Muṇḍa, đặt thân hoàng hậu Bhaddā vào trong một hòm sắt đều đầy dầu, và đậy lại với một hòm bằng sắt khác.
“Evaṃ, devā”ti kho piyako kosārakkho muṇḍassa rañño paṭissutvā bhaddāya deviyā sarīraṃ āyasāya teladoṇiyā pakkhipitvā aññissā āyasāya doṇiyā paṭikujji.
Rồi Piyaka, vị giữ kho bạc cho vua nghĩ như sau:
Atha kho piyakassa kosārakkhassa etadahosi:
“Hoàng hậu Bhaddā của vua Muṇḍa này đã mệnh chung, được ái luyến thương yêu, vì quá thương yêu hoàng hậu Bhaddā, vua không tắm rửa, không thoa dầu, không ăn uống, không lo các công việc — ngày đêm sầu muộn, ôm ấp thân của hoàng hậu Bhaddā.
“imassa kho muṇḍassa rañño bhaddā devī kālaṅkatā piyā manāpā. So bhaddāya deviyā kālaṅkatāya piyāya manāpāya neva nhāyati na vilimpati na bhattaṃ bhuñjati na kammantaṃ payojeti—rattindivaṃ bhaddāya deviyā sarīre ajjhomucchito.
Hãy để vua Muṇḍa đến yết kiến một vị Sa-môn hay Bà-la-môn, sau khi nghe pháp từ vị ấy, có thể bỏ được mũi tên sầu muộn”.
Kaṃ nu kho muṇḍo rājā samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā payirupāseyya, yassa dhammaṃ sutvā sokasallaṃ pajaheyyā”ti.
Rồi Piyaka, người giữ kho bạc nghĩ như sau: “Có Tôn giả Nārada này trú ở Pāṭaliputta, tại khu vườn Kukkuta. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Nārada:
Atha kho piyakassa kosārakkhassa etadahosi: “ayaṃ kho āyasmā nārado pāṭaliputte viharati kukkuṭārāme. Taṃ kho panāyasmantaṃ nāradaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Bậc Hiền trí, thông minh, bậc trí giả, được nghe nhiều, khéo nói, thiện biện tài, bậc Trưởng lão, bậc A-la-hán”.
‘paṇḍito viyatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno vuddho ceva arahā ca’.
Hãy để vua Muṇḍa đến yết kiến Tôn giả Nārada. Sau khi nghe pháp từ vị ấy, vua có thể gạt bỏ mũi tên sầu muộn”.
Yannūna muṇḍo rājā āyasmantaṃ nāradaṃ payirupāseyya, appeva nāma muṇḍo rājā āyasmato nāradassa dhammaṃ sutvā sokasallaṃ pajaheyyā”ti.
Rồi Piyaka, người giữ kho bạc đi đến vua Muṇḍa, sau khi đến, nói với vua Muṇḍa:
Atha kho piyako kosārakkho yena muṇḍo rājā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā muṇḍaṃ rājānaṃ etadavoca:
-Tâu Ðại vương, có Tôn giả Nārada nay trú ở Pāṭaliputta, tại khu vườn Kukkuta. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Tôn giả Nārada:
“ayaṃ kho, deva, āyasmā nārado pāṭaliputte viharati kukkuṭārāme. Taṃ kho panāyasmantaṃ nāradaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:
“Bậc Hiền trí, thông minh, bậc trí giả, được nghe nhiều, khéo nói, thiện biện tài, bậc Trưởng lão, bậc A-la-hán”.
‘paṇḍito viyatto medhāvī bahussuto cittakathī kalyāṇapaṭibhāno vuddho ceva arahā ca’.
Nếu Ðại vương yết kiến Tôn giả Nārada, rất có thể, sau khi nghe pháp từ Tôn giả Nārada, Ðại vương có thể gạt bỏ mũi tên sầu muộn.
Yadi pana devo āyasmantaṃ nāradaṃ payirupāseyya, appeva nāma devo āyasmato nāradassa dhammaṃ sutvā sokasallaṃ pajaheyyā”ti.
– Vậy này Piyaka, hãy tin cho Tôn giả Nārada được biết.
“Tena hi, samma piyaka, āyasmantaṃ nāradaṃ paṭivedehi.
Rồi vua nghĩ: “Làm sao ta tự nghĩ, một người như ta, phải đến thăm như thế nào một Sa-môn hay Bà-la-môn sống ở trong quốc độ, từ trước chưa được ai biết?”
Kathañhi nāma mādiso samaṇaṃ vā brāhmaṇaṃ vā vijite vasantaṃ pubbe appaṭisaṃvidito upasaṅkamitabbaṃ maññeyyā”ti.
– Thưa vâng, tâu Ðại vương. Pijaka, người giữ kho bạc vâng đáp vua Muṇḍa; đi đến Tôn giả Nārada, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Nārada rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Piyaka, vị giữ kho bạc bạch Tôn giả Nārada:
“Evaṃ, devā”ti kho piyako kosārakkho muṇḍassa rañño paṭissutvā yenāyasmā nārado tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ nāradaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho piyako kosārakkho āyasmantaṃ nāradaṃ etadavoca:
Hoàng hậu Bhaddā của vua Muṇḍa, thưa Tôn giả, đã mệnh chung, được ái luyến, thương yêu. Vì quá thương yêu hoàng hậu Bhaddā, nên vua không tắm, không thoa dầu, không ăn uống, không lo các công việc — ngày đêm sầu muộn, ôm ấp thân hoàng hậu Bhaddā.
“Imassa, bhante, muṇḍassa rañño bhaddā devī kālaṅkatā piyā manāpā. So bhaddāya deviyā kālaṅkatāya piyāya manāpāya neva nhāyati na vilimpati na bhattaṃ bhuñjati na kammantaṃ payojeti—rattindivaṃ bhaddāya deviyā sarīre ajjhomucchito.
Lành thay, Nếu Tôn giả Nārada thuyết pháp cho vua Muṇḍa như thế nào để vua Muṇḍasau khi nghe pháp từ Tôn giả Nārada, có thể gạt bỏ mũi tên sầu muộn.
Sādhu, bhante, āyasmā nārado muṇḍassa rañño tathā dhammaṃ desetu yathā muṇḍo rājā āyasmato nāradassa dhammaṃ sutvā sokasallaṃ pajaheyyā”ti.
– Này Piyaka, nay là thời để vua Muṇḍa làm những gì vua nghĩ là phải thời.
“Yassadāni, piyaka, muṇḍo rājā kālaṃ maññatī”ti.
Rồi Piyaka, người giữ kho bạc, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Nārada, thân bên hữu hướng về ngài rồi ra đi, và đi đến vua Muṇḍa; sau khi đến, thưa với vua Muṇḍa:
Atha kho piyako kosārakkho uṭṭhāyāsanā āyasmantaṃ nāradaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā yena muṇḍo rājā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā muṇḍaṃ rājānaṃ etadavoca:
– “Tâu Ðại vương, cơ hội đã được sắp đặt với Tôn giả Nārada. Này Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là phải thời.”
“katāvakāso kho, deva, āyasmatā nāradena. Yassadāni devo kālaṃ maññatī”ti.
– “Vậy này Piyaka, hãy cho thắng các cỗ xe tốt đẹp.”
“Tena hi, samma piyaka, bhadrāni bhadrāni yānāni yojāpehī”ti.
– Thưa vâng, tâu Ðại vương. Pikaka, người giữ kho bạc vâng đáp vua Muṇḍa, cho thắng các cỗ xe tốt đẹp, rồi thưa với vua Muṇḍa:
“Evaṃ, devā”ti kho piyako kosārakkho muṇḍassa rañño paṭissutvā bhadrāni bhadrāni yānāni yojāpetvā muṇḍaṃ rājānaṃ etadavoca:
– Tâu Ðại vương, các cỗ xe tốt đẹp đã thắng xong. Nay Ðại vương hãy làm những gì Ðại vương nghĩ là phải thời.
“yuttāni kho te, deva, bhadrāni bhadrāni yānāni. Yassadāni devo kālaṃ maññatī”ti.
2. Rồi vua Muṇḍa leo lên cỗ xe tốt đẹp, cùng với các cỗ xe tốt đẹp khác đi đến khu vườn Kukkuta với uy nghi oai lực của nhà vua để yết kiến Tôn giả Nārada.
Atha kho muṇḍo rājā bhadraṃ yānaṃ abhiruhitvā bhadrehi bhadrehi yānehi yena kukkuṭārāmo tena pāyāsi mahaccā rājānubhāvena āyasmantaṃ nāradaṃ dassanāya.
Vua đi xe xa cho đến đường đất xe có thể đi được, rồi xuống xe, đi bộ vào khu vườn.
Yāvatikā yānassa bhūmi yānena gantvā, yānā paccorohitvā pattikova ārāmaṃ pāvisi.
Rồi vua Muṇḍa đi đến Tôn giả Nārada, sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Nārada rồi ngồi xuống một bên. Rồi Tôn giả Nārada nói với vua đang ngồi một bên:
Atha kho muṇḍo rājā yena āyasmā nārado tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmantaṃ nāradaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho muṇḍaṃ rājānaṃ āyasmā nārado etadavoca:
– Thưa Ðại vương, có năm sự kiện này không thể có được bởi một Sa-môn, hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời. Thế nào là năm?
“Pañcimāni, mahārāja, alabbhanīyāni ṭhānāni samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmiṃ. Katamāni pañca?
3. Bị già và muốn không già, là một sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời.
‘Jarādhammaṃ mā jīrī’ti alabbhanīyaṃ ṭhānaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmiṃ.
Bị bệnh và muốn không bệnh… bị chết và muốn không chết… bị hoại diệt và muốn không hoại diệt… bị tiêu diệt và muốn không tiêu diệt, là một sự kiện không thể có được bởi một Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời.
‘Byādhidhammaṃ mā byādhīyī’ti ...pe... ‘maraṇadhammaṃ mā mīyī’ti … ‘khayadhammaṃ mā khīyī’ti … ‘nassanadhammaṃ mā nassī’ti alabbhanīyaṃ ṭhānaṃ samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasmiṃ.
4. Với phàm phu không học, thưa Ðại vương, phải bị già và già đến. Và khi già đến, kẻ ấy không suy tư:
Assutavato, mahārāja, puthujjanassa jarādhammaṃ jīrati. So jarādhamme jiṇṇe na iti paṭisañcikkhati:
“Không phải chỉ một mình ta phải bị già và già đến. Nhưng đối với loài hữu tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình đều phải bị già và già đến.
‘na kho mayhevekassa jarādhammaṃ jīrati, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbesaṃ sattānaṃ jarādhammaṃ jīrati.
Và nếu phải bị già và khi già đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống, không làm ta ưa thích; thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến, kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn”.
Ahañceva kho pana jarādhamme jiṇṇe soceyyaṃ kilameyyaṃ parideveyyaṃ, urattāḷiṃ kandeyyaṃ, sammohaṃ āpajjeyyaṃ, bhattampi me nacchādeyya, kāyepi dubbaṇṇiyaṃ okkameyya, kammantāpi nappavatteyyuṃ, amittāpi attamanā assu, mittāpi dummanā assū’ti.
Kẻ ấy phải bị già, khi già đến, sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
So jarādhamme jiṇṇe socati kilamati paridevati, urattāḷiṃ kandati, sammohaṃ āpajjati.
Thưa Ðại Vương, đây gọi là: kẻ phàm phu không học bị mũi tên sầu muộn tẩm thuốc độc bắn trùng, kẻ ấy tự làm mình ưu não.
Ayaṃ vuccati, mahārāja: ‘assutavā puthujjano viddho savisena sokasallena attānaṃyeva paritāpeti’.
5. Lại nữa, thưa Ðại vương, với kẻ phàm phu không học, phải bị bệnh và bệnh đến… phải bị chết và chết đến… phải bị hoại diệt và hoại diệt đến… phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến; khi tiêu diệt đến, kẻ ấy không suy tư:
Puna caparaṃ, mahārāja, assutavato puthujjanassa byādhidhammaṃ byādhīyati ...pe... maraṇadhammaṃ mīyati … khayadhammaṃ khīyati … nassanadhammaṃ nassati. So nassanadhamme naṭṭhe na iti paṭisañcikkhati:
“Không phải chỉ một mình ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Nhưng đối với các loài hữu tình có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu tình đều phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến.
‘na kho mayhevekassa nassanadhammaṃ nassati, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbesaṃ sattānaṃ nassanadhammaṃ nassati.
Và nếu phải bị tiêu diệt, khi tiêu diệt đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa thích; thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ, bạn bè sẽ lo buồn”.
Ahañceva kho pana nassanadhamme naṭṭhe soceyyaṃ kilameyyaṃ parideveyyaṃ, urattāḷiṃ kandeyyaṃ, sammohaṃ āpajjeyyaṃ, bhattampi me nacchādeyya, kāyepi dubbaṇṇiyaṃ okkameyya, kammantāpi nappavatteyyuṃ, amittāpi attamanā assu, mittāpi dummanā assū’ti.
Kẻ ấy phải bị tiêu diệt, khi tiêu diệt đến, sầu, bi than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh.
So nassanadhamme naṭṭhe socati kilamati paridevati, urattāḷiṃ kandati, sammohaṃ āpajjati.
Thưa Ðại vương, đây gọi là kẻ phàm phu không học bị mũi tên sầu muộn tẩm thuốc độc bắn trúng, kẻ ấy tự làm mình ưu não.
Ayaṃ vuccati, mahārāja: ‘assutavā puthujjano viddho savisena sokasallena attānaṃyeva paritāpeti’.
6. Với vị Thánh đệ tử có học, thưa Ðại vương, bị già đến; và già đến; khi già đến, vị ấy có suy tư:
Sutavato ca kho, mahārāja, ariyasāvakassa jarādhammaṃ jīrati. So jarādhamme jiṇṇe iti paṭisañcikkhati:
“Không phải chỉ một mình ta phải bị già và già đến. Nhưng đối với các loài hữu tình có đến, có đi; có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình đều phải bị già và già đến.
‘na kho mayhevekassa jarādhammaṃ jīrati, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbesaṃ sattānaṃ jarādhammaṃ jīrati.
Và nếu phải bị già và khi già đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa thích; thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn”.
Ahañceva kho pana jarādhamme jiṇṇe soceyyaṃ kilameyyaṃ parideveyyaṃ, urattāḷiṃ kandeyyaṃ, sammohaṃ āpajjeyyaṃ, bhattampi me nacchādeyya, kāyepi dubbaṇṇiyaṃ okkameyya, kammantāpi nappavatteyyuṃ, amittāpi attamanā assu, mittāpi dummanā assū’ti.
Vị ấy phải bị già, khi già đến, không sầu, không bi, không than khóc, không đập ngực, không đi đến bất tỉnh.
So jarādhamme jiṇṇe na socati na kilamati na paridevati, na urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati.
Thưa Ðại vương, đây gọi là vị Thánh đệ tử có học, được nhổ lên là mũi tên sầu muộn có tẩm thuốc độc, mà kẻ phàm phu không học bị bắn trúng, tự làm mình ưu não.
Ayaṃ vuccati, mahārāja: ‘sutavā ariyasāvako abbuhi savisaṃ sokasallaṃ, yena viddho assutavā puthujjano attānaṃyeva paritāpeti.
Không sầu muộn, không bị tên bắn trúng, vị Thánh đệ tử tự làm mình được hoàn toàn tịch tịnh.
Asoko visallo ariyasāvako attānaṃyeva parinibbāpeti’.
7. Lại nữa, thưa Ðại vương, với vị Thánh đệ tử có học phải bị bệnh và bệnh đến… phải bị chết và chết đến… phải bị hoại diệt và hoại diệt đến… phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến; khi tiêu diệt đến, vị ấy có suy tư:
Puna caparaṃ, mahārāja, sutavato ariyasāvakassa byādhidhammaṃ byādhīyati ...pe... maraṇadhammaṃ mīyati … khayadhammaṃ khīyati … nassanadhammaṃ nassati. So nassanadhamme naṭṭhe iti paṭisañcikkhati:
“Không phải chỉ một mình ta phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến. Nhưng đối với các loài hữu tình, có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả các loài hữu tình đều phải bị tiêu diệt và tiêu diệt đến.
‘na kho mayhevekassa nassanadhammaṃ nassati, atha kho yāvatā sattānaṃ āgati gati cuti upapatti sabbesaṃ sattānaṃ nassanadhammaṃ nassati.
Và nếu phải bị tiêu diệt và khi tiêu diệt đến, ta lại sầu, bi, than khóc, đập ngực, đi đến bất tỉnh, thời ăn uống không làm ta ưa thích, thân ta trở thành xấu xí; các công việc không có xúc tiến; kẻ thù sẽ hoan hỷ; bạn bè sẽ lo buồn”.
Ahañceva kho pana nassanadhamme naṭṭhe soceyyaṃ kilameyyaṃ parideveyyaṃ, urattāḷiṃ kandeyyaṃ, sammohaṃ āpajjeyyaṃ, bhattampi me nacchādeyya, kāyepi dubbaṇṇiyaṃ okkameyya, kammantāpi nappavatteyyuṃ, amittāpi attamanā assu, mittāpi dummanā assū’ti.
Vị ấy phải bị tiêu diệt, khi tiêu diệt đến không sầu, không bi, không than khóc, không đập ngực, không đi đến bất tỉnh.
So nassanadhamme naṭṭhe na socati na kilamati na paridevati, na urattāḷiṃ kandati, na sammohaṃ āpajjati.
Thưa Ðại vương, đây gọi là vị Thánh đệ tử có học, được nhổ lên là mũi tên sầu muộn có tẩm thuốc độc mà kẻ phàm phu không học bị bắn trúng, tự làm mình ưu não.
Ayaṃ vuccati, mahārāja: ‘sutavā ariyasāvako abbuhi savisaṃ sokasallaṃ, yena viddho assutavā puthujjano attānaṃyeva paritāpeti.
Không sầu muộn, không bị tên bắn, vị Thánh đệ tử tự làm mình được hoàn toàn tịch tịnh.
Asoko visallo ariyasāvako attānaṃyeva parinibbāpeti’.
Các pháp này, thưa Ðại vương, là năm sự kiện không thể có được bởi Sa-môn hay Bà-la-môn, bởi Ma hay Phạm thiên, hay bởi một ai ở đời.
Imāni kho, mahārāja, pañca alabbhanīyāni ṭhānāni samaṇena vā brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā lokasminti.
Không sầu, không than khóc,
Lợi ích được thật ít,
Biết nó sầu, nó khổ,
Kẻ địch tự vui sướng.
Na socanāya paridevanāya,
Atthodha labbhā api appakopi;
Socantamenaṃ dukhitaṃ viditvā,
Paccatthikā attamanā bhavanti.
Do vậy, bậc Hiền trí,
Giữa các sự bất hạnh,
Không hoảng hốt rung sợ,
Biết phân tích, lợi ích.
Kẻ địch bị khổ não,
Thấy sắc diện không đổi.
Yato ca kho paṇḍito āpadāsu,
Na vedhatī atthavinicchayaññū;
Paccatthikāssa dukhitā bhavanti,
Disvā mukhaṃ avikāraṃ purāṇaṃ.
Với tụng niệm văn chú,
Với lời thật khéo nói,
Với bố thí chân chánh,
Với truyền thống khéo giữ.
Jappena mantena subhāsitena,
Anuppadānena paveṇiyā vā;
Yathā yathā yattha labhetha atthaṃ,
Tathā tathā tattha parakkameyya.
Chỗ nào được lợi ích,
Chỗ ấy gắng tinh cần.
Nếu biết lợi không được,
Cả ta và người khác,
Không sầu, biết chịu đựng,
Mong vị ấy nghĩ rằng:
Nay ta phải làm gì?
Phải kiên trì thế nào?
Sace pajāneyya alabbhaneyyo,
Mayāva aññena vā esa attho;
Asocamāno adhivāsayeyya,
Kammaṃ daḷhaṃ kinti karomi dānī”ti.
8. Sau khi được nghe như vậy, vua Muṇḍa thưa với Tôn giả Nārada:
Evaṃ vutte, muṇḍo rājā āyasmantaṃ nāradaṃ etadavoca:
– Thưa Đại Đức, pháp thoại này tên gì?
“ko nāmo ayaṃ, bhante, dhammapariyāyo”ti?
– Thưa Ðại vương, pháp thoại này tên là “Nhổ lên mũi tên sầu muộn”.
“Sokasallaharaṇo nāma ayaṃ, mahārāja, dhammapariyāyo”ti.
– Thật vậy, thưa Đại Đức, được nhổ lên là mũi tên sầu muộn! Khi con nghe pháp thoại này, mũi tên sầu muộn đã được đoạn tận.
“Taggha, bhante, sokasallaharaṇo. Imañhi me, bhante, dhammapariyāyaṃ sutvā sokasallaṃ pahīnan”ti.
Rồi vua Muṇḍa bảo Piyaka, vị gìn giữ kho bạc:
Atha kho muṇḍo rājā piyakaṃ kosārakkhaṃ āmantesi:
– Này Piyaka, hãy cho thiêu đốt thân của hoàng hậu Bhaddā, rồi xây tháp cho hoàng hậu. Bắt đầu từ hôm sau, chúng ta sẽ tắm rửa, sẽ thoa dầu, sẽ ăn cơm, sẽ lo làm các công việc.
“tena hi, samma piyaka, bhaddāya deviyā sarīraṃ jhāpetha; thūpañcassā karotha. Ajjatagge dāni mayaṃ nhāyissāma ceva vilimpissāma bhattañca bhuñjissāma kammante ca payojessāmā”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt