Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 6.27

Tăng Chi Bộ 6.27
Aṅguttara Nikāya 6.27

3. Phẩm Trên Tất Cả
3. Anuttariyavagga

Các Thời Gian (1)
Paṭhamasamayasutta

1. Rồi một Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
Atha kho aññataro bhikkhu yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca:

“Có bao nhiêu thời gian để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý?”
“kati nu kho, bhante, samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamitun”ti?

“2. Có sáu thời gian, này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý. Thế nào là sáu?
“Chayime, bhikkhu, samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ. Katame cha?

3. Ở đây, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị dục tham chi phối, bị dục tham ám ảnh, vị ấy không như thật rõ biết dục tham đang khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
Idha, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharati kāmarāgaparetena, uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo:

‘Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục tham chi phối, bị dục tham ám ảnh, tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi dục tham.
‘ahaṃ kho, āvuso, kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi kāmarāgaparetena, uppannassa ca kāmarāgassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi.

Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận dục tham.’
Sādhu vata me āyasmā kāmarāgassa pahānāya dhammaṃ desetū’ti.

Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn tham.
Tassa manobhāvanīyo bhikkhu kāmarāgassa pahānāya dhammaṃ deseti.

Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ nhất để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
Ayaṃ, bhikkhu, paṭhamo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.

4. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị sân chi phối, bị sân ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharati byāpādaparetena, uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo:

Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị dục sân chi phối, bị dục sân ám ảnh, tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân.
‘ahaṃ kho, āvuso, byāpādapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi byāpādaparetena, uppannassa ca byāpādassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi.

Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận sân.’
Sādhu vata me āyasmā byāpādassa pahānāya dhammaṃ desetū’ti.

Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn sân.
Tassa manobhāvanīyo bhikkhu byāpādassa pahānāya dhammaṃ deseti.

Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ hai để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
Ayaṃ, bhikkhu, dutiyo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.

5. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị hôn trầm thụy miên chi phối, bị hôn trầm thụy miên ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi hôn trầm thuỵ miên được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā viharati thinamiddhaparetena, uppannassa ca thinamiddhassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo:

Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị hôn trầm thụy miên chi phối, bị hôn trầm thụy miên ám ảnh, tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân.
‘ahaṃ kho, āvuso, thinamiddhapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi thinamiddhaparetena, uppannassa ca thinamiddhassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi.

Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận hôn trầm thụy miên.’
Sādhu vata me āyasmā thinamiddhassa pahānāya dhammaṃ desetū’ti.

Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn hôn trầm thụy miên.
Tassa manobhāvanīyo bhikkhu thinamiddhassa pahānāya dhammaṃ deseti.

Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ ba để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
Ayaṃ, bhikkhu, tatiyo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.

6. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị trạo hối chi phối, bị trạo hối ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi trạo hối được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā viharati uddhaccakukkuccaparetena, uppannassa ca uddhaccakukkuccassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo:

Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị trạo hối chi phối, bị trạo hối ám ảnh, tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân.
‘ahaṃ kho, āvuso, uddhaccakukkuccapariyuṭṭhitena cetasā viharāmi uddhaccakukkuccaparetena, uppannassa ca uddhaccakukkuccassa nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi.

Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận trạo hối.’
Sādhu vata me āyasmā uddhaccakukkuccassa pahānāya dhammaṃ desetū’ti.

Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn trạo hối.
Tassa manobhāvanīyo bhikkhu uddhaccakukkuccassa pahānāya dhammaṃ deseti.

Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ tư để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
Ayaṃ, bhikkhu, catuttho samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.

7. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo sống với tâm bị nghi chi phối, bị nghi ám ảnh, không như thật rõ biết xuất ly khỏi nghi được khởi lên, trong khi ấy, sau khi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharati vicikicchāparetena, uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo:

Thưa Hiền giả, tôi sống với tâm bị nghi chi phối, bị nghi ám ảnh, tôi không như thật rõ biết xuất ly khỏi sân.
‘ahaṃ, āvuso, vicikicchāpariyuṭṭhitena cetasā viharāmi vicikicchāparetena, uppannāya ca vicikicchāya nissaraṇaṃ yathābhūtaṃ nappajānāmi.

Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn tận nghi.’
Sādhu vata me āyasmā vicikicchāya pahānāya dhammaṃ desetū’ti.

Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn nghi.
Tassa manobhāvanīyo bhikkhu vicikicchāya pahānāya dhammaṃ deseti.

Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ năm để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
Ayaṃ, bhikkhu, pañcamo samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.

8. Lại nữa, này Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo y cứ nơi tướng nào, do tác ý tướng ấy, các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn, vị ấy không biết, không thấy tướng ấy, trong khi ấy, sau khi đi đến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý, vị ấy cần được nói như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhu, yasmiṃ samaye bhikkhu yaṃ nimittaṃ āgamma yaṃ nimittaṃ manasikaroto anantarā āsavānaṃ khayo hoti taṃ nimittaṃ nappajānāti tasmiṃ samaye manobhāvanīyo bhikkhu upasaṅkamitvā evamassa vacanīyo:

‘Thưa Hiền giả, y cứ nơi tướng nào, do tác ý tướng ấy các lậu hoặc được đoạn diệt, không có gián đoạn, tôi không biết không thấy tướng ấy.
‘ahaṃ kho, āvuso, yaṃ nimittaṃ āgamma yaṃ nimittaṃ manasikaroto anantarā āsavānaṃ khayo hoti, taṃ nimittaṃ nappajānāmi.

Lành thay, nếu Tôn giả thuyết pháp cho tôi để đoạn diệt các lậu hoặc.’
Sādhu vata me āyasmā āsavānaṃ khayāya dhammaṃ desetū’ti.

Và Tỷ-kheo đã được tu tập về ý thuyết pháp để đoạn diệt các lậu hoặc.
Tassa manobhāvanīyo bhikkhu āsavānaṃ khayāya dhammaṃ deseti.

Này Tỷ-kheo, đây là thời thứ sáu để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.
Ayaṃ, bhikkhu, chaṭṭho samayo manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamituṃ.

Ðây là sáu thời gian, này Tỷ-kheo, để đi đến yết kiến Tỷ-kheo đã được tu tập về ý.”
Ime kho, bhikkhu, cha samayā manobhāvanīyassa bhikkhuno dassanāya upasaṅkamitun”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt