Tăng Chi Bộ 6.26
Aṅguttara Nikāya 6.26
3. Phẩm Trên Tất Cả
3. Anuttariyavagga
Kaccana
Mahākaccānasutta
1. Tại đấy, Tôn giả Mahākaccāna gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho āyasmā mahākaccāno bhikkhū āmantesi:
“Chư Hiền giả Tỷ-kheo!”
“āvuso bhikkhave”ti.
“Thưa vâng, Hiền giả,” các vị Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Mahākaccāna.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato mahākaccānassa paccassosuṃ.
Tôn giả Mahākaccāna nói như sau:
Āyasmā mahākaccāno etadavoca:
“2. Thật vi diệu thay, chư Hiền giả! Thật hy hữu thay, chư Hiền giả!
“acchariyaṃ, āvuso; abbhutaṃ, āvuso.
Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy, các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ. Thế nào là sáu?
Yāvañcidaṃ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cha anussatiṭṭhānāni. Katamāni cha?
3. Ở đây, này các Hiền giả, Thánh đệ tử niệm Như Lai:
Idhāvuso, ariyasāvako tathāgataṃ anussarati:
‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán… Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā ...pe... satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā’ti.
Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Như Lai, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân hận chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako tathāgataṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Thánh đệ tử ấy, này chư Hiền, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.
Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
4. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Pháp:
Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako dhammaṃ anussarati:
‘Pháp được Thế Tôn khéo thuyết… được các người có trí tự mình giác hiểu.’
‘svākkhāto bhagavatā dhammo ...pe... paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.
Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Pháp, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si phối.
Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako dhammaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
Trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.
Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
5. Lại nữa, này chư Hiền, vị Thánh đệ tử niệm Tăng:
Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako saṅghaṃ anussarati:
‘Diệu hạnh là chúng đệ tử Thế Tôn… là ruộng phước vô thượng ở đời.’
‘suppaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho ...pe... anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.
Này chư Hiền, trong khi Thánh đệ tử niệm Tăng, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si phối.
Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako saṅghaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
Trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.
Này chư Hiền, lấy cái này làm đối tượng, ở đây một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
6. Lại nữa, này chư hiền, vị Thánh đệ tử niệm Giới: ‘Giới không bị bể vụn… đưa đến Thiền định’.
Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako attano sīlāni anussarati akhaṇḍāni ...pe... samādhisaṃvattanikāni.
Khi nào, này chư hiền, vị Thánh đệ tử niệm Giới, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako attano sīlaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Tham’, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.
Do lấy cái này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tự mình tùy niệm thí của mình: “Thật là được lợi cho ta! Thật là khéo được lợi cho ta…
Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako attano cāgaṃ anussarati: ‘lābhā vata me, suladdhaṃ vata me ...pe...
giữa những người bỏn xẻn ta sống không bỏn xẻn, sống quảng đại, cởi mở, thích buông xả, sống bác ái, thích cho đi và chia sẻ.’
yācayogo dānasaṃvibhāgarato’ti.
Khi nào, này chư hiền, vị Thánh đệ tử niệm Thí, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako attano cāgaṃ anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Tham’, này các Tỷ-kheo, là đồng nghĩa với năm dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.
Do lấy cái này làm đối tượng, này các Tỷ-kheo, ở đây một số các loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử tùy niệm Thiên:
Puna caparaṃ, āvuso, ariyasāvako devatā anussarati:
‘Có bốn Thiên vương, có chư Thiên cõi Trời Ba mươi ba, có chư Thiên Yāma, có chư Thiên Tusitā (Ðâu-suất), có chư Thiên Hóa Lạc Thiên, có chư Thiên Tha hóa Tự tại, có chư Thiên Phạm chúng, có chư Thiên cao hơn nữa.
‘santi devā cātumahārājikā, santi devā ...pe... tatuttari.
Ðầy đủ với lòng tin như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Lòng tin như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta. Ðầy đủ với giới, với nghe pháp, với thí, với tuệ như vậy, chư Thiên ấy, sau khi chết ở chỗ này, được sanh tại chỗ kia. Tuệ như vậy cũng có đầy đủ ở nơi ta.’
Yathārūpāya saddhāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā; mayhampi tathārūpā saddhā saṃvijjati. Yathārūpena sīlena … sutena … cāgena … paññāya samannāgatā tā devatā ito cutā tattha upapannā; mayhampi tathārūpā paññā saṃvijjatī’ti.
Khi vị ấy niệm tín, giới, nghe pháp, thí và tuệ của tự mình và chư Thiên ấy, trong khi ấy, tâm không bị tham chi phối, tâm không bị sân chi phối, tâm không bị si chi phối.
Yasmiṃ, āvuso, samaye ariyasāvako attano ca tāsañca devatānaṃ saddhañca sīlañca sutañca cāgañca paññañca anussarati nevassa tasmiṃ samaye rāgapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na dosapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti, na mohapariyuṭṭhitaṃ cittaṃ hoti;
trong khi ấy, tâm được chánh trực, ra khỏi, giải thoát, xuất khỏi tham.
ujugatamevassa tasmiṃ samaye cittaṃ hoti, nikkhantaṃ muttaṃ vuṭṭhitaṃ gedhamhā.
‘Tham’, này chư Hiền, là đồng nghĩa với các dục trưởng dưỡng.
‘Gedho’ti kho, āvuso, pañcannetaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ.
Thánh đệ tử ấy, trong tất cả thời, sống với tâm đồng đẳng với hư không, rộng lớn, quảng đại, vô lượng, không hận, không sân.
Sa kho so, āvuso, ariyasāvako sabbaso ākāsasamena cetasā viharati vipulena mahaggatena appamāṇena averena abyāpajjena.
Này chư Hiền, lấy tư tưởng này làm đối tượng, ở đây, một số loài hữu tình được thanh tịnh.
Idampi kho, āvuso, ārammaṇaṃ karitvā evam’idhekacce sattā visuddhidhammā bhavanti.
Thật vi diệu thay, này chư Hiền! Thật hy hữu thay, này chư Hiền!
Acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso.
Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, đã chứng ngộ và đạt được sự mở rộng khỏi bị trói buộc, nhờ vậy các loài hữu tình được thanh tịnh vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, chứng ngộ Niết-bàn, tức là sáu Tùy niệm xứ.”
Yāvañcidaṃ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya, yadidaṃ cha anussatiṭṭhānānī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt