Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 6.37

Tăng Chi Bộ 6.37
Aṅguttara Nikāya 6.37

4. Phẩm Chư Thiên
4. Devatāvagga

Bố Thí
Chaḷaṅgadānasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, tại Jetavata, khu vườn của ông Anāthapiṇḍika.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Lúc bấy giờ, mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Veḷukaṇṭakī làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, đứng đầu là Sāriputta và Moggallāna.
Tena kho pana samayena veḷukaṇḍakī nandamātā upāsikā sāriputta-moggallāna-ppamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅga-samannāgataṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpeti.

Thế Tôn với thiên nhãn thanh tịnh, siêu nhân, thấy mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Veḷukaṇṭakī làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, đứng đầu là Sāriputta và Moggallāna.
Addasā kho bhagavā dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena veḷukaṇḍakiṃ nandamātaraṃ upāsikaṃ sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅgasamannāgataṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpentiṃ.

Sau khi thấy vậy Thế Tôn liền bảo các Tỷ-kheo:
Disvā bhikkhū āmantesi:

“Có mẹ của Nanda, nữ gia chủ người Veḷukaṇṭakī làm một thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng, cầm đầu là Sāriputta và Moggallāna.
“esā, bhikkhave, veḷukaṇḍakī nandamātā upāsikā sāriputtamoggallānappamukhe bhikkhusaṅghe chaḷaṅgasamannāgataṃ dakkhiṇaṃ patiṭṭhāpeti.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là thí vật gồm có sáu phần cho chúng Tỷ-kheo Tăng?
Kathañca, bhikkhave, chaḷaṅgasamannāgatā dakkhiṇā hoti?

2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, có ba phần thuộc người bố thí và có ba phần thuộc người nhận đồ bố thí.
Idha, bhikkhave, dāyakassa tīṇaṅgāni honti, paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni.

Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí?
Katamāni dāyakassa tīṇaṅgāni?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng; trong khi bố thí, tâm được tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ.
Idha, bhikkhave, dāyako pubbeva dānā sumano hoti, dadaṃ cittaṃ pasādeti, datvā attamano hoti.

Ðây là ba phần của người bố thí.
Imāni dāyakassa tīṇaṅgāni.

Thế nào là ba phần của người nhận bố thí?
Katamāni paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, những người nhận vật bố thí, đã được ly tham hay đang thực hành hạnh ly tham; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân; đã được ly si hay đang thực hành hạnh ly si.
Idha, bhikkhave, paṭiggāhakā vītarāgā vā honti rāgavinayāya vā paṭipannā, vītadosā vā honti dosavinayāya vā paṭipannā, vītamohā vā honti mohavinayāya vā paṭipannā.

Ðây là ba phần của những người nhận vật bố thí.
Imāni paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni.

Như vậy là ba phần của người bố thí và ba phần của những người nhận được vật bố thí.
Iti dāyakassa tīṇaṅgāni, paṭiggāhakānaṃ tīṇaṅgāni.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là thí vật gồm có sáu phần.
Evaṃ kho, bhikkhave, chaḷaṅgasamannāgatā dakkhiṇā hoti.

3. Như vậy, này các Tỷ-kheo, thực không dễ gì nắm được số lượng về công đức một thí vật gồm có sáu phần như vậy:
Evaṃ chaḷaṅga-samannāgatāya, bhikkhave, dakkhiṇāya na sukaraṃ puññassa pamāṇaṃ gahetuṃ:

‘Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc’;
‘ettako puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko saggasaṃvattaniko iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattatī’ti.

vì rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng.
Atha kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahā-puññakkhandhotveva saṅkhaṃ gacchati.

Ví như, này các Tỷ-kheo, trong biển lớn, thật không dễ gì nắm lấy một số lượng nước và nói rằng: ‘Có chừng ấy thùng nước, hay có chừng ấy trăm thùng nước, hay có chừng ấy ngàn thùng nước, hay có chừng ấy trăm ngàn thùng nước’;
‘ettakāni udakāḷhakānīti vā ettakāni udakāḷhakasatānīti vā ettakāni udakāḷhaka-sahassānīti vā ettakāni udakāḷhaka-satasahassānī’ti vā.

vì rằng, cả khối lượng lớn nước được xem là vô số, vô lượng.
Atha kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahāudakakkhandhotveva saṅkhaṃ gacchati.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì để nắm được số lượng về công đức của một thí vật gồm sáu phần như vậy:
Evamevaṃ kho, bhikkhave, evaṃ chaḷaṅga-samannāgatāya dakkhiṇāya na sukaraṃ puññassa pamāṇaṃ gahetuṃ:

‘Có chừng ấy nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc an lạc’; vì rằng cả khối công đức lớn được xem là vô số, vô lượng.
‘ettako puññābhisando kusalābhisando sukhassāhāro sovaggiko sukhavipāko saggasaṃvattaniko iṭṭhāya kantāya manāpāya hitāya sukhāya saṃvattatī’ti. Atha kho asaṅkhyeyyo appameyyo mahā-puññakkhandhotveva saṅkhaṃ gacchatī”ti.

Trước bố thí, ý vui,
Khi bố thí, tâm tín.
Sau bố thí, hoan hỷ,
Ðây lễ thí đầy đủ.
“Pubbeva dānā sumano,
dadaṃ cittaṃ pasādaye;
Datvā attamano hoti,
esā yaññassa sampadā.

Ly tham và ly sân,
Ly si, không lậu hoặc,
Vị Phạm hạnh chế ngự
Là ruộng phước lễ thí.
Vītarāgā vītadosā,
vītamohā anāsavā;
Khettaṃ yaññassa sampannaṃ,
saññatā brahmacārayo.

Nếu tự thanh tịnh mình,
Tự tay mình bố thí,
Tự mình đến đời sau,
Lễ thí vậy, quả lớn.
Sayaṃ ācamayitvāna,
datvā sakehi pāṇibhi;
Attano parato ceso,
yañño hoti mahapphalo.

Lễ thí vậy, bậc trí,
Với tín, tâm giải thoát,
Không hận thù, an lạc,
Bậc Hiền sanh ở đời.
Evaṃ yajitvā medhāvī,
saddho muttena cetasā;
Abyāpajjaṃ sukhaṃ lokaṃ,
paṇḍito upapajjatī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt