Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 6.42

Tăng Chi Bộ 6.42
Aṅguttara Nikāya 6.42

4. Phẩm Chư Thiên
4. Devatāvagga

Tôn Giả Nagita
Nāgitasutta

1. Như vậy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời Thế Tôn đang bộ hành giữa các người Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến một làng Bà-la-môn tên là Icchānaṅgala.
ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ yena icchānaṅgalaṃ nāma kosalānaṃ brāhmaṇagāmo tadavasari.

Tại đấy, Thế Tôn trú ở Icchānaṅgala, trong khóm rừng Icchānaṅgala.
Tatra sudaṃ bhagavā icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.

Các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala được nghe:
Assosuṃ kho icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā:

“Tôn giả Gotama là Thích tử, xuất gia từ gia đình họ Thích, đã đến Icchānaṅgala, trú ở Icchānaṅgala trong khóm rừng Icchànagala.
“samaṇo khalu, bho, gotamo sakyaputto sakyakulā pabbajito icchānaṅgalaṃ anuppatto icchānaṅgale viharati icchānaṅgalavanasaṇḍe.

Về Tôn giả Gotama ấy, tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi:
Taṃ kho pana bhavantaṃ gotamaṃ evaṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggato:

‘Ðây là Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.’
‘itipi so bhagavā arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno ...pe... buddho bhagavā’ti.

Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người. Sau khi đã chứng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ, Ngài thuyết pháp điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, có nghĩa, có văn. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch. Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy!”
So imaṃ lokaṃ sadevakaṃ ...pe... arahataṃ dassanaṃ hotī”ti.

Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Icchānaṅgala, sau khi đêm ấy đã mãn, cầm theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm, đi đến khóm rừng Icchānaṅgala, sau khi đến, đứng ở ngoài cổng vào, cao tiếng và lớn tiếng.
Atha kho icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā tassā rattiyā accayena pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya yena icchānaṅgalavanasaṇḍo tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bahidvārakoṭṭhake aṭṭhaṃsu uccāsaddā mahāsaddā.

2. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nāgita là thị giả của Thế Tôn. Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Nāgita:
Tena kho pana samayena āyasmā nāgito bhagavato upaṭṭhāko hoti. Atha kho bhagavā āyasmantaṃ nāgitaṃ āmantesi:

“Này Nāgita, những ai đã cao tiếng và lớn tiếng như những người đánh cá đang giết hại cá?”
“ke pana te, nāgita, uccāsaddā mahāsaddā kevaṭṭā maññe macchavilope”ti?

“Các người ấy, bạch Thế Tôn, là các Bà-la-môn gia chủ trú ở Icchānaṅgala đang đứng ở khu viên cổng ngoài, đem theo rất nhiều đồ ăn loại cứng và loại mềm cho Thế Tôn và chúng Tăng.”
“Ete, bhante, icchānaṅgalakā brāhmaṇagahapatikā pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya bahidvārakoṭṭhake ṭhitā bhagavantaṃyeva uddissa bhikkhusaṅghañcā”ti.

“Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta.
“Māhaṃ, nāgita, yasena samāgamaṃ, mā ca mayā yaso.

Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc, mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức,
Yo kho, nāgita, nayimassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī assa akicchalābhī akasiralābhī, yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī,

hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.”
so taṃ mīḷhasukhaṃ middhasukhaṃ lābhasakkārasilokasukhaṃ sādiyeyyā”ti.

“Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy chấp nhận! Thiện Thệ hãy chấp nhận!
“Adhivāsetu dāni, bhante, bhagavā; adhivāsetu, sugato;

Nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào. Tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến với tâm hướng về cúng dường.
adhivāsanakālo dāni, bhante, bhagavato. Yena yeneva dāni, bhante, bhagavā gamissati, tanninnāva bhavissanti brāhmaṇagahapatikā negamā ceva jānapadā ca.

Ví như trời mưa nặng hột, và nước được chảy tùy theo chiều dốc;
Seyyathāpi, bhante, thullaphusitake deve vassante yathāninnaṃ udakāni pavattanti;

Cũng vậy, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sẽ đi đến chỗ nào, tại chỗ ấy các Bà-la-môn gia chủ ở thị trấn và ở quốc độ cũng sẽ đi đến, với tâm hướng về cúng dường.
evamevaṃ kho, bhante, yena yeneva dāni bhagavā gamissati, tanninnāva bhavissanti brāhmaṇagahapatikā negamā ceva jānapadā ca.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Bạch Thế Tôn do vì giới hạnh và trí tuệ của Thế Tôn.”
Tathā hi, bhante, bhagavato sīlapaññāṇan”ti.

“Này Nāgita, Ta không có liên hệ gì với danh vọng và danh vọng không có liên hệ gì với Ta.
“Māhaṃ, nāgita, yasena samāgamaṃ, mā ca mayā yaso.

Này Nāgita, những ai tìm được có khó khăn, tìm được có mệt nhọc, tìm được có phí sức an ổn lạc, viễn ly lạc, an tịnh lạc, chánh giác lạc mà Ta đã tìm được không khó khăn, tìm được không mệt nhọc, tìm được không phí sức,
Yo kho, nāgita, nayimassa nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī assa akicchalābhī akasiralābhī, yassāhaṃ nekkhammasukhassa pavivekasukhassa upasamasukhassa sambodhasukhassa nikāmalābhī akicchalābhī akasiralābhī,

hãy để họ thọ hưởng lạc như phân ấy, thụy miên lạc, lợi dưỡng, cung kính, danh văn lạc.
so taṃ mīḷhasukhaṃ middhasukhaṃ lābhasakkārasilokasukhaṃ sādiyeyya.

3. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo ngồi Thiền định tại trú xứ ở cuối làng.
Idhāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi gāmantavihāriṃ samāhitaṃ nisinnaṃ.

Này Nāgita, về vị ấy, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:

‘Nay có người coi khu vườn hay người Sa-di phá phách vị Tỷ-kheo này, làm cho vị này xuất khỏi thiền định.’
‘idānimaṃ āyasmantaṃ ārāmiko vā upaṭṭhahissati samaṇuddeso vā taṃ tamhā samādhimhā cāvessatī’ti.

Do vậy, này Nāgita, Ta không có hoan hỷ với trú xứ của vị ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno na attamano homi gāmantavihārena.

4. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy một Tỷ-kheo đang ngồi ngủ ngục ở trong rừng.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe pacalāyamānaṃ nisinnaṃ.

Này Nāgita, Ta suy nghĩ về vị ấy như sau:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:

‘Nay vị Tỷ-kheo này, sau khi đoạn trừ ngủ nghỉ và mệt nhọc, sẽ tác ý tưởng về rừng đạt được nhất tâm.’
‘idāni ayamāyasmā imaṃ niddākilamathaṃ paṭivinodetvā araññasaññaṃyeva manasi karissati ekattan’ti.

Do vậy, nầy Nāgita, ta hoan hỷ với trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.

5. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng, ngồi không Thiền định trong rừng.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe asamāhitaṃ nisinnaṃ.

Này Nāgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:

‘Nay Tỷ-kheo này sẽ Thiền định được tâm không Thiền định, hay sẽ bảo vệ tâm đã được Thiền định.’
‘idāni ayamāyasmā asamāhitaṃ vā cittaṃ samādahissati, samāhitaṃ vā cittaṃ anurakkhissatī’ti.

Do vậy, này Nāgita. Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.

6. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng ngồi với tâm Thiền định ở rừng.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ araññe samāhitaṃ nisinnaṃ.

Này Nāgita, đối với vị ấy, Ta suy nghĩ:
Tassa mayhaṃ, nāgita, evaṃ hoti:

‘Nay Tỷ-kheo này sẽ giải thoát, tâm chưa được giải thoát hay sẽ bảo vệ tâm sẽ được giải thoát.’
‘idāni ayamāyasmā avimuttaṃ vā cittaṃ vimocessati, vimuttaṃ vā cittaṃ anurakkhissatī’ti.

Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.

7. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở cuối làng, nhận được vật dụng như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi gāmantavihāriṃ lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārānaṃ.

Thích thú với các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, bỏ phế thiền tịnh, bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng.
So taṃ lābhasakkārasilokaṃ nikāmayamāno riñcati paṭisallānaṃ riñcati araññavanapatthāni pantāni senāsanāni;

đi xuống làng, thị trấn, kinh đô để lo nuôi sống.
gāmanigamarājadhāniṃ osaritvā vāsaṃ kappeti.

Do vậy, này Nāgita, Ta không có hoan hỷ về trú xứ cuối làng của Tỷ-kheo ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno na attamano homi gāmantavihārena.

8. Ở đây, này Nāgita, Ta thấy Tỷ-kheo sống ở rừng nhận được các vật dụng cần thiết như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.
Idha panāhaṃ, nāgita, bhikkhuṃ passāmi āraññikaṃ lābhiṃ cīvara-piṇḍapāta-senāsana-gilānappaccaya-bhesajja-parikkhārānaṃ.

Nhưng chận đứng các lợi dưỡng, cung kính, danh văn ấy, không bỏ phế Thiền tịnh, không bỏ phế các trú xứ rừng núi cao nguyên xa vắng.
So taṃ lābhasakkārasilokaṃ paṭipaṇāmetvā na riñcati paṭisallānaṃ na riñcati araññavanapatthāni pantāni senāsanāni.

Do vậy, này Nāgita, Ta hoan hỷ về trú xứ tại rừng của Tỷ-kheo ấy.
Tenāhaṃ, nāgita, tassa bhikkhuno attamano homi araññavihārena.

Nhưng khi Ta đang bước đi trên con đường, trước mặt, Ta không thấy ai; sau lưng, Ta không thấy ai; trong khi ấy, Ta cảm thấy an ổn, này Nāgita, cho đến vấn đề đi đại, tiểu tiện.”
Yasmāhaṃ, nāgita, samaye addhānamaggappaṭipanno na kañci passāmi purato vā pacchato vā, phāsu me, nāgita, tasmiṃ samaye hoti antamaso uccārapassāvakammāyā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt