Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 7.53

Tăng Chi Bộ 7.53
Aṅguttara Nikāya 7.53

5. Phẩm Đại Tế Đàn
5. Mahāyaññavagga

Mẹ Của Nanda
Nandamātāsutta

1. Như vầy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Mahāmoggallāna đang du hành ở Khu Đồi Phía Nam, cùng với đại chúng Tỷ-kheo.
ekaṃ samayaṃ āyasmā ca sāriputto āyasmā ca mahāmoggallāno dakkhiṇāgirismiṃ cārikaṃ caranti mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ.

Lúc bấy giờ, nữ cư sĩ Veḷukaṇṭakī, mẹ của Nanda thức dậy trước khi mặt trời mọc, và đọc lớn tiếng bài “Pārāyana” (Con đường đưa đến bờ bên kia).
Tena kho pana samayena veḷukaṇḍakī nandamātā upāsikā rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya pārāyanaṃ sarena bhāsati.

Lúc bấy giờ, Ðại vương Vessavaṇa (Tỳ-sa-môn) đang đi từ phương Bắc đến phương Nam vì một vài công việc.
Tena kho pana samayena vessavaṇo mahārājā uttarāya disāya dakkhiṇaṃ disaṃ gacchati kenacideva karaṇīyena.

Ðại vương Vessavaṇa nghe nữ cư sĩ Veḷukaṇṭakī, mẹ của Nanda, sau khi lớn tiếng đọc xong bài Pàràyana, liền đứng lại, chờ đợi cho bài được đọc xong.
Assosi kho vessavaṇo mahārājā nandamātāya upāsikāya pārāyanaṃ sarena bhāsantiyā, sutvā kathāpariyosānaṃ āgamayamāno aṭṭhāsi.

Và nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, sau khi lớn tiếng đọc xong bài Pàràyana, liền im lặng.
Atha kho nandamātā upāsikā pārāyanaṃ sarena bhāsitvā tuṇhī ahosi.

Rồi Ðại vương Vessavaṇa biết được nữ cư sĩ, mẹ của Nanda đã đọc xong bài kệ, liền hết sức hoan hỷ và nói:
Atha kho vessavaṇo mahārājā nandamātāya upāsikāya kathāpariyosānaṃ viditvā abbhānumodi:

“Lành thay, này Chị! Lành thay, này Chị!”
“sādhu, bhagini, sādhu, bhaginī”ti.

“Ngài là ai, hỡi vị có khuôn mặt hiền từ?”
“Ko paneso, bhadramukhā”ti?

“Này Chị, ta là anh của Chị, Ðại vương Vessavaṇa.”
“Ahaṃ te, bhagini, bhātā vessavaṇo, mahārājā”ti.

“Lành thay, hỡi vị có khuôn mặt hiền từ! Hãy lấy pháp môn được tôi nói đến hôm qua, làm quà tặng đón khách cho Ngài.”
“Sādhu, bhadramukha, tena hi yo me ayaṃ dhammapariyāyo bhaṇito idaṃ te hotu ātitheyyan”ti.

‘Lành thay, này Chị! Phải, pháp môn này hãy là quà tặng đón khách của tôi.
“Sādhu, bhagini, etañceva me hotu ātitheyyaṃ.

Ngày mai, chúng Tỷ-kheo, với Sāriputta và Moggallāna là các vị dẫn đầu, sẽ đến Velukantaka, nhưng chưa ăn sáng. Sau khi Chị mời chúng Tỷ-kheo dùng xong, hãy tuyên bố chính ta đã cúng dường.
Sveva sāriputtamoggallānappamukho bhikkhusaṅgho akatapātarāso veḷukaṇḍakaṃ āgamissati, tañca bhikkhusaṅghaṃ parivisitvā mama dakkhiṇaṃ ādiseyyāsi.

Đó cũng là quà tặng đón khách của tôi dành cho chị.”
Etañceva me bhavissati ātitheyyan”ti.

2. Rồi cư sĩ, mẹ của Nanda, sau khi đêm ấy đã mãn, liền cho sửa soạn tại nhà của mình các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
Atha kho nandamātā upāsikā tassā rattiyā accayena sake nivesane paṇītaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ paṭiyādāpesi.

Rồi chúng Tăng, với Sāriputta và Moggallāna là vị cầm đầu đi đến Velukantaka nhưng chưa ăn sáng.
Atha kho sāriputtamoggallānappamukho bhikkhusaṅgho akatapātarāso yena veḷukaṇḍako tadavasari.

Rồi nữ cư sĩ, mẹ của Nanda bảo một người đi, nói rằng:
Atha kho nandamātā upāsikā aññataraṃ purisaṃ āmantesi:

“Này Bạn, hãy đi đến khu vườn và báo thời giờ cho chúng Tỷ-kheo:
“ehi tvaṃ, ambho purisa, ārāmaṃ gantvā bhikkhusaṅghassa kālaṃ ārocehi:

‘Ðã đến giờ, thưa các Tôn giả! Tại nhà của mẹ Nanda, các món ăn đã được sửa soạn.’”
‘kālo, bhante, ayyāya nandamātuyā nivesane niṭṭhitaṃ bhattan’”ti.

“Vâng, thưa bà,” người ấy vâng đáp nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, đi đến khu vườn và báo thời giờ cho chúng Tỷ-kheo:
“Evaṃ, ayye”ti kho so puriso nandamātāya upāsikāya paṭissutvā ārāmaṃ gantvā bhikkhusaṅghassa kālaṃ ārocesi:

“Ðã đến giờ, thưa các Tôn giả! Tại nhà của mẹ Nanda, các món ăn đã được sửa soạn.”
“kālo, bhante, ayyāya nandamātuyā nivesane niṭṭhitaṃ bhattan”ti.

Rồi chúng Tỷ-kheo, với Sāriputta mà Mahāmoggallāna là vị cầm đầu, vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi đến trú xứ của nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, sau khi đến, ngồi xuống trên các chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho sāriputtamoggallānappamukho bhikkhusaṅgho pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena nandamātāya upāsikāya nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Rồi nữ cư sĩ, mẹ của Nanda, mời chúng Tỷ-kheo với Sāriputta và Moggallāna là vị dẫn đầu, với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, và làm chúng Tỷ-kheo được hài lòng.
Atha kho nandamātā upāsikā sāriputtamoggallānappamukhaṃ bhikkhusaṅghaṃ paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappesi sampavāresi.

Rồi nữ cư sĩ, mẹ của Nanda thấy Tôn giả Sāriputta ăn đã xong, tay đã rút lui khỏi bình bát, liền ngồi xuống một bên.
Atha kho nandamātā upāsikā āyasmantaṃ sāriputtaṃ bhuttāviṃ onītapattapāṇiṃ ekamantaṃ nisīdi.

Tôn giả Sāriputta nói với cư sĩ, mẹ của Nanda đang ngồi một bên:
Ekamantaṃ nisinnaṃ kho nandamātaraṃ upāsikaṃ āyasmā sāriputto etadavoca:

“Này Mẹ của Nanda, ai bảo cho Bà biết chúng Tỷ-kheo sẽ đi tới nhà?”
“ko pana te, nandamāte, bhikkhusaṅghassa abbhāgamanaṃ ārocesī”ti?

“Ở đây, thưa Tôn giả, con thức dậy trước khi trời sáng, đọc lớn tiếng bài kệ Pàràyana rồi im lặng.
“Idhāhaṃ, bhante, rattiyā paccūsasamayaṃ paccuṭṭhāya pārāyanaṃ sarena bhāsitvā tuṇhī ahosiṃ.

Rồi thưa Tôn giả, Ðại vương Vessavaṇa sau khi biết được con đã đọc xong, liền hết sức hoan hỷ và nói:
Atha kho, bhante, vessavaṇo mahārājā mama kathāpariyosānaṃ viditvā abbhānumodi:

‘Lành thay, này Chị! Lành thay, này Chị!’
‘sādhu, bhagini, sādhu, bhaginī’ti.

‘Ngài là ai, hỡi vị có khuôn mặt hiền từ?’
‘Ko paneso, bhadramukhā’ti?

‘Này Chị, ta là anh của Chị, Ðại vương Vessavaṇa.’
‘Ahaṃ te, bhagini, bhātā vessavaṇo, mahārājā’ti.

‘Lành thay, hỡi vị có khuôn mặt hiền từ! Hãy lấy pháp môn được tôi nói đến hôm qua, làm quà tặng đón khách cho Ngài.’
‘Sādhu, bhadramukha, tena hi yo me ayaṃ dhammapariyāyo bhaṇito idaṃ te hotu ātitheyyan’ti.

‘Lành thay, này Chị! Phải, pháp môn này hãy là quà tặng đón khách của tôi.
‘Sādhu, bhagini, etañceva me hotu ātitheyyaṃ.

Ngày mai, chúng Tỷ-kheo, với Sāriputta và Moggallāna là các vị cầm đầu, sẽ đến Velukantaka, nhưng chưa ăn sáng. Sau khi Chị mời chúng Tỷ-kheo dùng xong, hãy tuyên bố chính ta đã cúng dường.
Sveva sāriputtamoggallānappamukho bhikkhusaṅgho akatapātarāso veḷukaṇḍakaṃ āgamissati, tañca bhikkhusaṅghaṃ parivisitvā mama dakkhiṇaṃ ādiseyyāsi.

Đó cũng là quà tặng đón khách của tôi dành cho chị.’
Etañceva me bhavissati ātitheyyan’ti.

Thưa Tôn giả, mong rằng mọi công đức của buổi cúng dường này sẽ đem lại an lạc cho đại vương Vessavaṇa.”
Yadidaṃ, bhante, dāne puññañca puññamahī ca taṃ vessavaṇassa mahārājassa sukhāya hotū”ti.

“3. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ, nandamāte.

Bà có thể nói chuyện, mặt tận mặt với một Thiên tử có đại thần lực như vậy, có đại uy lực như vậy.”
Yatra hi nāma vessavaṇena mahārājena evaṃmahiddhikena evaṃmahesakkhena devaputtena sammukhā sallapissasī”ti.

“Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con.
“Na kho me, bhante, eseva acchariyo abbhuto dhammo.

Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác!
Atthi me aññopi acchariyo abbhuto dhammo.

Ở đây, thưa Tôn giả, Nanda, đứa con độc nhất của con, khả ái, khả ý.
Idha me, bhante, nando nāma ekaputtako piyo manāpo.

Vì một lý do gì đó, bị các vua dùng sức mạnh bắt giữ và đoạn mạng sống.
Taṃ rājāno kismiñcideva pakaraṇe okassa pasayha jīvitā voropesuṃ.

Thưa Tôn giả, trong khi đứa trẻ bị bắt giữ hay đang bị bắt giữ, khi bị trói hay đang bị trói, khi bị giết hay đang bị giết, con rõ biết tâm của con không có đổi khác.”
Tasmiṃ kho panāhaṃ, bhante, dārake gahite vā gayhamāne vā vadhe vā vajjhamāne vā hate vā haññamāne vā nābhijānāmi cittassa aññathattan”ti.

“4. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ nandamāte.

Bà đã có thể làm cho tâm khởi thanh tịnh như vậy.”
Yatra hi nāma cittuppādampi parisodhessasī”ti.

“Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con.
“Na kho me, bhante, eseva acchariyo abbhuto dhammo.

Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác.
Atthi me aññopi acchariyo abbhuto dhammo.

Ở đây, thưa Tôn giả, người chồng của con, khi mạng chung, sanh vào sanh loại Dạ-xoa.
Idha me, bhante, sāmiko kālaṅkato aññataraṃ yakkhayoniṃ upapanno.

Và vị ấy hiện lên trước mặt con, với một tự ngã như lúc trước.
So me teneva purimena attabhāvena uddassesi.

Nhưng thưa Tôn giả, con rõ biết, không vì nhân duyên ấy, tâm của con có đổi khác.”
Na kho panāhaṃ, bhante, abhijānāmi tatonidānaṃ cittassa aññathattan”ti.

“5. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ, nandamāte.

Người đã có thể làm cho tâm khởi thanh tịnh như vậy.”
Yatra hi nāma cittuppādampi parisodhessasī”ti.

“Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con.
“Na kho me, bhante, eseva acchariyo abbhuto dhammo.

Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác.
Atthi me aññopi acchariyo abbhuto dhammo.

Thưa Tôn giả, khi còn là thiếu nữ, được đưa đến cho chồng con, con rõ biết con không có một tâm vi phạm đối với chồng con, huống nữa là về thân.”
Yatohaṃ, bhante, sāmikassa daharasseva daharā ānītā nābhijānāmi sāmikaṃ manasāpi aticaritā, kuto pana kāyenā”ti.

“6. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ, nandamāte.

Bà đã có thể làm cho tâm khởi thanh tịnh như vậy.”
Yatra hi nāma cittuppādampi parisodhessasī”ti.

“Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con.
“Na kho me, bhante, eseva acchariyo abbhuto dhammo.

Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác.
Atthi me aññopi acchariyo abbhuto dhammo.

Thưa Tôn giả, khi con tự chấp nhận là một nữ cư sĩ, con rõ biết con chưa từng vi phạm một học pháp nào.”
Yadāhaṃ, bhante, upāsikā paṭidesitā nābhijānāmi kiñci sikkhāpadaṃ sañcicca vītikkamitā”ti.

“7. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!”
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ, nandamāte”ti.

“Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con.
“Na kho me, bhante, eseva acchariyo abbhuto dhammo.

Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác.
Atthi me aññopi acchariyo abbhuto dhammo.

Ở đây, thưa Tôn giả, nếu con muốn, con có thể ly dục, ly pháp bất thiện, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, không tầm không tứ;
Idhāhaṃ, bhante, yāvade ākaṅkhāmi vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

làm cho tịnh chỉ tầm và tứ, con chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm;
Vitakkavicārānaṃ vūpasamā ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

ly hỷ, con trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, con chứng đạt và an trú Thiền thứ ba;
Pītiyā ca virāgā upekkhikā ca viharāmi satā ca sampajānā sukhañca kāyena paṭisaṃvedemi, yaṃ taṃ ariyā ācikkhanti: ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmi.

đoạn lạc và đoạn khổ, chấm dứt các hỷ ưu đã cảm thọ trước, con chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.”
Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca pahānā pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ upasampajja viharāmī”ti.

“8. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!”
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ, nandamāte”ti.

“Thưa Tôn giả, không phải chỉ có sự vi diệu như vậy, sự hy hữu như vậy đối với con.
“Na kho me, bhante, eseva acchariyo abbhuto dhammo.

Con còn có một sự kiện vi diệu, hy hữu khác.
Atthi me aññopi acchariyo abbhuto dhammo.

Ở đây, thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết sử được Thế Tôn thuyết giảng, con thấy rõ không còn pháp nào ở nơi con chưa được đoạn tận.”
Yānimāni, bhante, bhagavatā desitāni pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni nāhaṃ tesaṃ kiñci attani appahīnaṃ samanupassāmī”ti.

“9. Thật vi diệu thay, Mẹ của Nanda! Thật hy hữu thay, Mẹ của Nanda!!”
“Acchariyaṃ, nandamāte, abbhutaṃ, nandamāte”ti.

Rồi Tôn giả Sāriputta, sau khi với một pháp thoại, nói lên cho nữ cư sĩ mẹ của Nanda, khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, từ chỗ ngồi đứng dậy rồi ra đi.
Atha kho āyasmā sāriputto nandamātaraṃ upāsikaṃ dhammiyā kathāya sandassetvā samādapetvā samuttejetvā sampahaṃsetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmīti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt