Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 7.64

Tăng Chi Bộ 7.64
Aṅguttara Nikāya 7.64

6. Phẩm Không Tuyên Bố
6. Abyākatavagga

Sân Hận
Kodhanasutta

“1. Này các Tỷ-kheo, có bảy pháp này được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hay đàn ông. Thế nào là bảy?
“Sattime, bhikkhave, dhammā sapattakantā sapattakaraṇā kodhanaṃ āgacchanti itthiṃ vā purisaṃ vā. Katame satta?

2. Ở đây, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Idha, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này trở thành xấu xí!’
‘aho vatāyaṃ dubbaṇṇo assā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có dung sắc.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa vaṇṇavatāya nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu cho người ấy khéo tắm rửa, khéo chải chuốt, tóc râu khéo sửa soạn, mặc toàn đồ trắng rồi người ấy cũng trở thành xấu xí, vì bị phẫn nộ chinh phục.
Kodhanoyaṃ, bhikkhave, purisapuggalo kodhābhibhūto kodhapareto, kiñcāpi so hoti sunhāto suvilitto kappitakesamassu odātavatthavasano; atha kho so dubbaṇṇova hoti kodhābhibhūto.

Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ nhất, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này ngủ một cách khổ sở!’
‘aho vatāyaṃ dukkhaṃ sayeyyā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình ngủ một cách an lành.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa sukhaseyyāya nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, dầu có nằm trên ghế dài, nệm trải bằng len, chăn len trắng, chăn len thêu, nệm bằng da con sơn dương gọi là Kadali, tấm khảm với lọng che phía trên, ghế dài có đầu gối chân màu đỏ. Tuy vậy, họ vẫn ngủ một cách khổ sở, vì bị phẫn nộ chinh phục.
Kodhanoyaṃ, bhikkhave, purisapuggalo kodhābhibhūto kodhapareto, kiñcāpi so pallaṅke seti gonakatthate paṭalikatthate kadali-miga-pavara-paccattharaṇe sauttaracchade ubhatolohitakūpadhāne; atha kho so dukkhaññeva seti kodhābhibhūto.

Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ hai, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này không có lợi ích!’
‘aho vatāyaṃ na pacurattho assā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được lợi ích.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa pacuratthatāya nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, thâu hoạch bất lợi, lại nghĩ rằng: ‘Ta được lợi ích’, thâu hoạch điều bất lợi ích, lại nghĩ rằng: ‘Ta không được lợi ích’.
Kodhanoyaṃ, bhikkhave, purisapuggalo kodhābhibhūto kodhapareto, anatthampi gahetvā ‘attho me gahito’ti maññati, atthampi gahetvā ‘anattho me gahito’ti maññati.

Những pháp này được nắm giữ khiến người khác trở thành thù địch, đưa đến không hạnh phúc, đau khổ lâu dài, vì bị phẫn nộ chinh phục.
Tassime dhammā aññamaññaṃ vipaccanīkā gahitā dīgharattaṃ ahitāya dukkhāya saṃvattanti kodhābhibhūtassa.

Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ ba, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

5. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này không có tài sản!’
‘aho vatāyaṃ na bhogavā assā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được tài sản.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa bhogavatāya nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, những tài sản nào của họ thâu hoạch do sự phấn chấn tinh cần, cất chứa do sức mạnh của cánh tay, chồng chất do những giọt mồ hôi, đúng pháp, thâu hoạch hợp pháp. Các tài sản ấy được nhà vua cho chở về ngân khố nhà vua, vì bị phẫn nộ chinh phục.
Kodhanassa, bhikkhave, purisapuggalassa kodhābhibhūtassa kodhaparetassa, yepissa te honti bhogā uṭṭhānavīriyādhigatā bāhābalaparicitā sedāvakkhittā dhammikā dhammaladdhā, tepi rājāno rājakosaṃ pavesenti kodhābhibhūtassa.

Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ tư, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, catuttho dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này không có danh tiếng!’
‘aho vatāyaṃ na yasavā assā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được danh tiếng.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa yasavatāya nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu có được danh tiếng gì nhờ không phóng dật thâu hoạch được, danh tiếng ấy lánh xa họ, vì bị phẫn nộ chinh phục.
Kodhanoyaṃ, bhikkhave, purisapuggalo kodhābhibhūto kodhapareto, yopissa so hoti yaso appamādādhigato, tamhāpi dhaṃsati kodhābhibhūto.

Này các Tỷ-kheo, đây là pháp thứ năm, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, pañcamo dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này không có bạn bè!’
‘aho vatāyaṃ na mittavā assā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình có được bạn bè.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa mittavatāya nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, nếu người đó có những bạn bè thân hữu, bà con huyết thống gì, họ sẽ xa lánh, từ bỏ người đó, vì người đó bị phẫn nộ chinh phục.
Kodhanaṃ, bhikkhave, purisapuggalaṃ kodhābhibhūtaṃ kodhaparetaṃ, yepissa te honti mittāmaccā ñātisālohitā, tepi ārakā parivajjanti kodhābhibhūtaṃ.

Ðây là pháp thứ sáu, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, chaṭṭho dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, người thù địch mong muốn kẻ thù địch của mình như sau:
Puna caparaṃ, bhikkhave, sapatto sapattassa evaṃ icchati:

‘Mong rằng kẻ này sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh trong cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục!’
‘aho vatāyaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjeyyā’ti.

Vì cớ sao?
Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, người thù địch không hoan hỷ kẻ thù địch của mình sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.
Na, bhikkhave, sapatto sapattassa sugatigamane nandati.

Này các Tỷ-kheo, hạng người nào phẫn nộ, bị phẫn nộ chinh phục, bị phẫn nộ chi phối, người đó làm ác hạnh với thân, người đó nói lời ác hạnh với lời, người đó nghĩ đến điều ác hạnh với ý,
Kodhanoyaṃ, bhikkhave, purisapuggalo kodhābhibhūto kodhapareto kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. So kāyena duccaritaṃ caritvā vācāya ...pe...

khi thân hoại mạng chung, người đó sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati kodhābhibhūto.

Ðây là pháp thứ bảy, được người thù ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ayaṃ, bhikkhave, sattamo dhammo sapattakanto sapattakaraṇo kodhanaṃ āgacchati itthiṃ vā purisaṃ vā.

Bảy pháp này, này các Tỷ-kheo, được người thù địch ưa thích, tác thành kẻ thù địch đi đến người phẫn nộ, đàn bà hoặc đàn ông.
Ime kho, bhikkhave, satta dhammā sapattakantā sapattakaraṇā kodhanaṃ āgacchanti itthiṃ vā purisaṃ vāti.

Kẻ phẫn nộ xấu xí,
Ðau khổ khi nằm ngủ,
Ðược các điều lợi ích
Lại cảm thấy bất lợi.
Kodhano dubbaṇṇo hoti,
atho dukkhampi seti so;
Atho atthaṃ gahetvāna,
anatthaṃ adhipajjati.

Phẫn nộ, nó đả thương,
Với thân với lời nói,
Người phẫn nộ chinh phục,
Tài sản bị tiêu vong.
Tato kāyena vācāya,
vadhaṃ katvāna kodhano;
Kodhābhibhūto puriso,
dhanajāniṃ nigacchati.

Bị phẫn nộ điên loạn,
Danh dự bị hủy diệt,
Bà con cùng bạn bè,
Lánh xa người phẫn nộ.
Kodha­samma­da­sammatto,
āyasakyaṃ nigacchati;
Ñātimittā suhajjā ca,
parivajjanti kodhanaṃ.

Phẫn nộ sanh bất lợi,
Phẫn nộ dao động tâm,
Sợ hãi sanh từ trong,
Người ấy không rõ biết.
Anatthajanano kodho,
kodho cittappakopano;
Bhayamantarato jātaṃ,
taṃ jano nāvabujjhati.

Phẫn nộ không biết lợi,
Phẫn nộ không thấy pháp,
Phẫn nộ chinh phục ai,
Người ấy bị mê ám.
Kuddho atthaṃ na jānāti,
kuddho dhammaṃ na passati;
Andhatamaṃ tadā hoti,
yaṃ kodho sahate naraṃ.

Người phẫn nộ thích thú
Làm ác như làm thiện,
Về sau phẫn nộ dứt,
Bị khổ như lửa đốt,
Yaṃ kuddho uparodheti,
sukaraṃ viya dukkaraṃ;
Pacchā so vigate kodhe,
aggidaḍḍhova tappati.

Như ngọn lửa dầu khói,
Ðược thấy thất thểu cháy,
Khi phẫn nộ lan tràn,
Khi tuổi trẻ nổi nóng,
Dummaṅkuyaṃ padasseti,
dhūmaṃ dhūmīva pāvako;
Yato patāyati kodho,
yena kujjhanti mānavā.

Không xấu hổ, sợ hãi,
Lời nói không cung kính.
Bị phẫn nộ chinh phục,
Không hòn đảo tựa nương.
Nāssa hirī na ottappaṃ,
na vāco hoti gāravo;
Kodhena abhibhūtassa,
na dīpaṃ hoti kiñcanaṃ.

Việc làm đem hối hận,
Rất xa với Chánh pháp.
Ta sẽ tuyên bố họ,
Hãy nghe như tuyên bố,
Tapanīyāni kammāni,
yāni dhammehi ārakā;
Tāni ārocayissāmi,
taṃ suṇātha yathā tathaṃ.

Phẫn nộ giết cả cha,
Phẫn nộ giết cả mẹ,
Phẫn nộ giết Phạm chí,
Phẫn nộ giết phàm phu.
Kuddho hi pitaraṃ hanti,
hanti kuddho samātaraṃ;
Kuddho hi brāhmaṇaṃ hanti,
hanti kuddho puthujjanaṃ.

Chính nhờ mẹ dưỡng dục,
Người thấy được đời này,
Nhưng phàm phu phẫn nộ,
Giết người cho sự sống.
Yāya mātu bhato poso,
imaṃ lokaṃ avekkhati;
Tampi pāṇadadiṃ santiṃ,
hanti kuddho puthujjano.

Chúng sanh tự ví dụ,
Thương tự ngã tối thượng,
Phàm phu giết tự ngã,
Ðiên loạn nhiều hình thức,
Attūpamā hi te sattā,
attā hi paramo piyo;
Hanti kuddho puthuttānaṃ,
nānārūpesu mucchito.

Lấy gươm giết tự ngã,
Ðiên loạn uống thuốc độc,
Dây tự trói họ chết,
Trong hang động núi rừng,
Asinā hanti attānaṃ,
visaṃ khādanti mucchitā;
Rajjuyā bajjha mīyanti,
pabbatāmapi kandare.

Những hành động sát sanh,
Khiến tự ngã phải chết.
Họ làm nhưng không biết,
Kẻ phẫn nộ hại người,
Bhūnahaccāni kammāni,
attamāraṇiyāni ca;
Karontā nāvabujjhanti,
kodhajāto parābhavo.

Với hình thức phẫn nộ,
Ma bẫy ẩn trong tâm.
Hãy nhiếp phục cắt đứt,
Với tuệ, tấn, chánh kiến,
Itāyaṃ kodharūpena,
maccupāso guhāsayo;
Taṃ damena samucchinde,
paññāvīriyena diṭṭhiyā.

Bậc trí tuệ cắt đoạn,
Mỗi mỗi bất thiện pháp
Như vậy học tập pháp,
Không để tâm nản chí,
Yathā metaṃ akusalaṃ,
samucchindetha paṇḍito;
Tatheva dhamme sikkhetha,
mā no dummaṅkuyaṃ ahu.

Ly sân, không áo não,
Ly tham, tật đố không,
Nhiếp phục, đoạn phẫn nộ,
Vô lậu, nhập Niết-bàn.
Vītakodhā anāyāsā,
Vītalobhā anussukā;
Dantā kodhaṃ pahantvāna,
Parinibbanti anāsavā”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt