Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 8.1

Tăng Chi Bộ 8.1
Aṅguttara Nikāya 8.1

1. Phẩm Từ
1. Mettāvagga

Từ
Mettāsutta

1. Như vầy tôi nghe:
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī tại Jetavanna, khu vườn Ông Anāthapiṇḍika.
ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“Này các Tỷ-kheo!”
“bhikkhavo”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
“Bhadante”ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:

“2. Với từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích.
“Mettāya, bhikkhave, cetovimuttiyā āsevitāya bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya aṭṭhānisaṃsā pāṭikaṅkhā.

Thế nào là tám?
Katame aṭṭha?

3. Ngủ được an lạc, dậy được an lạc, không thấy ác mộng, được người ái mộ, được phi nhân ái mộ, được chư Thiên hộ trì, lửa hay thuốc độc hay kiếm không gia hại, nếu không thông đạt thượng vị, đạt được Phạm Thiên giới.
Sukhaṃ supati, sukhaṃ paṭibujjhati, na pāpakaṃ supinaṃ passati, manussānaṃ piyo hoti, amanussānaṃ piyo hoti, devatā rakkhanti, nāssa aggi vā visaṃ vā satthaṃ vā kamati, uttariṃ appaṭivijjhanto brahmalokūpago hoti.

Với từ tâm giải thoát, này các Tỷ-kheo, được sử dụng, được tu tập, được làm cho sung mãn, được làm như cỗ xe, được làm như căn cứ địa, được tùy trú, được tích tập, được khéo tác thành, thời chờ đợi là có tám lợi ích này.
Mettāya, bhikkhave, cetovimuttiyā āsevitāya bhāvitāya bahulīkatāya yānīkatāya vatthukatāya anuṭṭhitāya paricitāya susamāraddhāya ime aṭṭhānisaṃsā pāṭikaṅkhāti.

Ai tu tập từ tâm,
Vô lượng thường ức niệm,
Các kiết sử yếu dần,
Thấy được sanh y diệt.
Yo ca mettaṃ bhāvayati,
appamāṇaṃ paṭissato;
Tanū saṃyojanā honti,
passato upadhikkhayaṃ.

Với tâm không ác độc,
Từ mẫn mọi chúng sanh,
Do vậy, vị ấy thành,
Bậc thuần nhất chí thiện,
Với tâm ý từ mẫn,
Ðối với mọi chúng sanh,
Bậc Thánh khéo thực hiện,
Nhiều công đức tốt lành.
Ekampi ce pāṇamaduṭṭhacitto,
Mettāyati kusalī tena hoti;
Sabbe ca pāṇe manasānukampī,
Pahūtamariyo pakaroti puññaṃ.

Sau khi đã chinh phục,
Rất đông đảo loài người,
Các ẩn sĩ vua chúa,
Theo nghi lễ tế tự,
Lễ tế ngựa tế người,
Lễ uống nước thắng trận,
Lễ ném cầu may rủi,
Lễ rút lui khóa cửa.
Ye sattasaṇḍaṃ pathaviṃ vijetvā,
Rājisayo yajamānā anupariyagā;
Assamedhaṃ purisamedhaṃ,
Sammāpāsaṃ vājapeyyaṃ niraggaḷaṃ.

Không được phần mười sáu,
Bậc khéo tu từ tâm,
Như ánh sáng mặt trăng,
Ðối với các quần sao.
Mettassa cittassa subhāvitassa,
Kalampi te nānubhavanti soḷasiṃ;
Candappabhā tāragaṇāva sabbe,
Yathā na agghanti kalampi soḷasiṃ.

Không giết, không bảo giết,
Không thắng, không bảo thắng,
Từ tâm mọi chúng sanh,
Không hận thù với ai.
Yo na hanti na ghāteti,
na jināti na jāpaye;
Mettaṃso sabbabhūtānaṃ,
veraṃ tassa na kenacī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt