Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 8.21

Tăng Chi Bộ 8.21
Aṅguttara Nikāya 8.21

3. Phẩm Gia Chủ
3. Gahapativagga

Ugga Ở Vesali
Paṭhamauggasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Vesālī, tại Ðại Lâm, ở ngôi nhà có nóc nhọn. Tại đấy, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati mahāvane kūṭāgārasālāyaṃ. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

“2. Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga, người Vesālī, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ trì như vậy.”
“aṭṭhahi, bhikkhave, acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgataṃ uggaṃ gahapatiṃ vesālikaṃ dhārethā”ti.

Thế Tôn nói như vậy.
Idamavoca bhagavā.

Nói như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.

3. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Ugga người Vesālī; sau khi đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho aññataro bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena uggassa gahapatino vesālikassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.

Rồi gia chủ Ugga người Vesālī, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy nói với gia chủ Ugga, người Vesālī, đang ngồi xuống một bên:
Atha kho uggo gahapati vesāliko yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho uggaṃ gahapatiṃ vesālikaṃ so bhikkhu etadavoca:

“4. Này gia chủ, Thế Tôn có nói rằng: Gia chủ Ugga người Vesālī này, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có.
“Aṭṭhahi kho tvaṃ, gahapati, acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato bhagavatā byākato.

Này gia chủ, thế nào là tám pháp vi diệu chưa từng có ấy, mà Thế Tôn nói gia chủ là người được thành tựu?”
Katame te, gahapati, aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā, yehi tvaṃ samannāgato bhagavatā byākato”ti?

“Thưa Tôn giả, tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có là gì.
“Na kho ahaṃ, bhante, jānāmi: ‘katamehi aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato bhagavatā byākato’ti.

Nhưng thưa Tôn giả, tôi có tám pháp vi diệu chưa từng có này.
Api ca, bhante, ye me aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā saṃvijjanti,;

Hãy lắng nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.”
taṃ suṇohi, sādhukaṃ manasi karohi, bhāsissāmī”ti.

“Vâng, này gia chủ”, Tỷ-kheo ấy vâng đáp gia chủ Ugga người Vesālī.
“Evaṃ, gahapatī”ti kho so bhikkhu uggassa gahapatino vesālikassa paccassosi.

Gia chủ Ugga người Vesālī nói như sau:
Uggo gahapati vesāliko etadavoca:

“5. Thưa Tôn giả, khi tôi lần đầu tiên chỉ từ xa thấy Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, chỉ thấy Thế Tôn thôi, tâm tôi được tịnh tín.
“yadāhaṃ, bhante, bhagavantaṃ paṭhamaṃ dūratova addasaṃ; saha dassaneneva me, bhante, bhagavato cittaṃ pasīdi.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu thứ nhất, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, paṭhamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

Rồi thưa Tôn giả, với tâm tịnh tín ấy, tôi hầu hạ Thế Tôn.
So kho ahaṃ, bhante, pasannacitto bhagavantaṃ payirupāsiṃ.

Thế Tôn thuyết pháp thuận thứ cho tôi, như:
Tassa me bhagavā anupubbiṃ kathaṃ kathesi, seyyathidaṃ—

thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về cõi Trời, nói đến sự nguy hại, hạ liệt, nhiễm ô của các dục và sự lợi ích của viễn ly.
dānakathaṃ sīlakathaṃ saggakathaṃ; kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ, nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi.

6. Khi Thế Tôn biết tôi tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Thế Tôn mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao:
Yadā maṃ bhagavā aññāsi kallacittaṃ muducittaṃ vinīvaraṇacittaṃ udaggacittaṃ pasannacittaṃ, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā taṃ pakāsesi—

Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
dukkhaṃ, samudayaṃ, nirodhaṃ, maggaṃ.

Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm.
Seyyathāpi nāma suddhaṃ vatthaṃ apagatakāḷakaṃ sammadeva rajanaṃ paṭiggaṇheyya;

Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên nơi tôi:
evamevaṃ kho me tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:

‘Phàm pháp gì được tập khởi, tất cả Pháp ấy đều bị đoạn diệt.’
‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman’ti.

Rồi thưa Tôn giả, khi tôi thấy pháp, đạt pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ được vượt qua, do dự trừ diệt, đạt được vô sở úy, không ý cứ người khác đối với pháp bậc Ðạo sư.
So kho ahaṃ, bhante, diṭṭhadhammo pattadhammo viditadhammo pariyogāḷhadhammo tiṇṇavicikiccho vigatakathaṅkatho vesārajjappatto aparappaccayo satthusāsane

Tại đấy, tôi quy y Phật, quy y Pháp và chúng Tăng, tôi thọ lãnh năm học pháp về Phạm hạnh.
tattheva buddhañca dhammañca saṅghañca saraṇaṃ agamāsiṃ, brahmacariyapañcamāni ca sikkhāpadāni samādiyiṃ.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ hai, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, dutiyo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

7. Thưa Tôn giả, tôi có bốn vợ đều còn trẻ tuổi.
Tassa mayhaṃ, bhante, catasso komāriyo pajāpatiyo ahesuṃ.

Rồi tôi đi đến các người vợ ấy; sau khi đến, tôi nói với các người vợ ấy như sau:
Atha khvāhaṃ, bhante, yena tā pajāpatiyo tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā tā pajāpatiyo etadavacaṃ:

‘Này các vị, tôi đã thọ lãnh năm học pháp về Phạm hạnh.
‘mayā kho, bhaginiyo, brahmacariyapañcamāni sikkhāpadāni samādinnāni.

Ai muốn, hãy hưởng thọ tài sản ở chỗ này, hay làm các công đức, hay đi đến gia đình bà con của mình.
Yā icchati sā idheva bhoge ca bhuñjatu puññāni ca karotu, sakāni vā ñātikulāni gacchatu.

Hay ai có ưng ý người đàn ông nào, tôi sẽ cho các vị’
Hoti vā pana purisādhippāyo, kassa vo dammī’ti?

Ðược nói như vậy, thưa Tôn giả, người vợ lớn của tôi nói với tôi:
Evaṃ vutte, sā, bhante, jeṭṭhā pajāpati maṃ etadavoca:

‘Thưa gia chủ Ugga, hãy cho tôi người đàn ông tên này.’
‘itthannāmassa maṃ, ayyaputta, purisassa dehī’ti.

Rồi thưa Tôn giả, tôi cho mời người ấy lại, với tay trái tôi cầm người vợ, với tay phải tôi cầm bình nước, rồi tôi rửa sạch người ấy.
Atha kho ahaṃ, bhante, taṃ purisaṃ pakkosāpetvā vāmena hatthena pajāpatiṃ gahetvā dakkhiṇena hatthena bhiṅgāraṃ gahetvā tassa purisassa oṇojesiṃ.

Thưa Tôn giả, từ khi bỏ người vợ trẻ, tâm tôi không có một chút đổi khác.
Komāriṃ kho panāhaṃ, bhante, dāraṃ pariccajanto nābhijānāmi cittassa aññathattaṃ.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ ba, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, tatiyo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

8. Thưa Tôn giả, có những tài sản ở trong gia đình tôi.
Saṃvijjanti kho pana me, bhante, kule bhogā.

Chúng được phân chia giữa những người có giới và những người tốt lành.
Te ca kho appaṭivibhattā sīlavantehi kalyāṇadhammehi.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ tư, được có ở với tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, catuttho acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo;
Yaṃ kho panāhaṃ, bhante, bhikkhuṃ payirupāsāmi;

Tôi hầu hạ rất cẩn thận, không phải không cẩn thận.
sakkaccaṃyeva payirupāsāmi, no asakkaccaṃ.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ năm, được có ở với tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, pañcamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

10. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả ấy thuyết pháp cho tôi,
So ce, bhante, me āyasmā dhammaṃ deseti;

tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải không cẩn thận.
sakkaccaṃyeva suṇomi, no asakkaccaṃ.

Nếu Tôn giả ấy không thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp cho vị ấy.
No ce me so āyasmā dhammaṃ deseti, ahamassa dhammaṃ desemi.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, chaṭṭho acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

11. Thật không phải là vi diệu, thưa Tôn giả, chư Thiên sau khi đến, bảo tôi:
Anacchariyaṃ kho pana maṃ, bhante, devatā upasaṅkamitvā ārocenti:

‘Này gia chủ, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng!’
‘svākkhāto, gahapati, bhagavatā dhammo’ti.

Khi được nói vậy, thưa Tôn giả, tôi nói với chư Thiên ấy như sau:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhante, tā devatā evaṃ vadāmi:

‘Dầu cho chư Thiên các người có nói như vậy hay không nói như vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng!’
‘vadeyyātha vā evaṃ kho tumhe devatā no vā vadeyyātha, atha kho svākkhāto bhagavatā dhammo’ti.

Thưa Tôn giả, tuy vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy, nghĩa là:
Na kho panāhaṃ, bhante, abhijānāmi tatonidānaṃ cittassa unnatiṃ:

Chư Thiên đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên.
‘maṃ vā devatā upasaṅkamanti, ahaṃ vā devatāhi saddhiṃ sallapāmī’ti.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, sattamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

12. Thưa Tôn giả, năm hạ phần kiết sử này được Thế Tôn thuyết giảng, tôi thấy rõ không có một pháp nào không được đoạn tận ở nơi tôi.
Yānimāni, bhante, bhagavatā desitāni pañcorambhāgiyāni saṃyojanāni, nāhaṃ tesaṃ kiñci attani appahīnaṃ samanupassāmi.

Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ tám, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, aṭṭhamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.

Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa từng có này có mặt.
Ime kho me, bhante, aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā saṃvijjanti.

Nhưng tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này.”
Na ca kho ahaṃ jānāmi—katamehi cāhaṃ aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato bhagavatā byākato”ti.

13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ ăn khất thực tại trú xứ của gia chủ Ugga, người Vesālī, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho so bhikkhu uggassa gahapatino vesālikassa nivesane piṇḍapātaṃ gahetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.

Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho so bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.

Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu chuyện nói với gia chủ Ugga người Vesālī thuật lại với Thế Tôn.
Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu yāvatako ahosi uggena gahapatinā vesālikena saddhiṃ kathāsallāpo, taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.

“14. Lành thay, lành thay! này Tỷ-kheo!
“Sādhu sādhu, bhikkhu.

Gia chủ Ugga người Vesālī nếu có trả lời một cách chơn chánh, có thể trả lời như vậy. Này Tỷ-kheo, Ta đã nói gia chủ Ugga người Vesālī thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này.
Yathā taṃ uggo gahapati vesāliko sammā byākaramāno byākareyya, imeheva kho, bhikkhu, aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato uggo gahapati vesāliko mayā byākato.

Này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng gia chủ Ugga, người Vesālī, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này.”
Imehi ca pana, bhikkhu, aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgataṃ uggaṃ gahapatiṃ vesālikaṃ dhārehī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt