Tăng Chi Bộ 8.22
Aṅguttara Nikāya 8.22
3. Phẩm Gia Chủ
3. Gahapativagga
Ugga Người Hatthigama
Dutiyauggasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Vajji, tại làng Hatthi. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā vajjīsu viharati hatthigāme. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi:
“2. Này các Tỷ-kheo, gia chủ Ugga, người Hatthigāma, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có. Các Thầy hãy thọ trì như vậy.”
“aṭṭhahi, bhikkhave, acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgataṃ uggaṃ gahapatiṃ hatthigāmakaṃ dhārethā”ti.
Thế Tôn nói như vậy.
Idamavoca bhagavā.
Nói như vậy xong, bậc Thiện Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.
Idaṃ vatvāna sugato uṭṭhāyāsanā vihāraṃ pāvisi.
3. Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Ugga người Hatthigāma; sau khi đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn.
Atha kho aññataro bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena uggassa gahapatino hatthigāmakassa nivesanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi.
Rồi gia chủ Ugga người Hatthigāma, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy nói với gia chủ Ugga, người Hatthigāma, đang ngồi xuống một bên:
Atha kho uggo gahapati hatthigāmako yena so bhikkhu tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ bhikkhuṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho uggaṃ gahapatiṃ hatthigāmakaṃ so bhikkhu etadavoca:
“4. Này gia chủ, Thế Tôn có nói rằng: “Gia chủ Ugga người Hatthigāma này, thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có.
“aṭṭhahi kho tvaṃ, gahapati, acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato bhagavatā byākato.
Này gia chủ, thế nào là tám pháp vi diệu chưa từng có ấy, mà Thế Tôn nói gia chủ là người được thành tựu?”
Katame te, gahapati, aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā, yehi tvaṃ samannāgato bhagavatā byākato”ti?
“Thưa Tôn giả, tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có là gì.
“Na kho ahaṃ, bhante, jānāmi: ‘katamehi aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato bhagavatā byākato’ti.
Nhưng thưa Tôn giả, tôi có tám pháp vi diệu chưa từng có này.
Api ca, bhante, ye me aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā saṃvijjanti,
hãy lắng nghe và khéo tác ý, tôi sẽ nói.”
taṃ suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī”ti.
“Vâng, này gia chủ,” Tỷ-kheo ấy vâng đáp gia chủ Ugga người Hatthigāma.
“Evaṃ, gahapatī”ti kho so bhikkhu uggassa gahapatino hatthigāmakassa paccassosi.
Gia chủ Ugga người Hatthigāma nói như sau:
Uggo gahapati hatthigāmako etadavoca:
“5. Thưa Tôn giả, khi tôi còn vui chơi ở rừng Nāga, lần đầu tiên, tôi thấy Thế Tôn từ đằng xa.
“yadāhaṃ, bhante, nāgavane paricaranto bhagavantaṃ paṭhamaṃ dūratova addasaṃ;
Chỉ thấy Thế Tôn thôi, thưa Tôn giả, tâm tôi được tịnh tín, và say rượu được đoạn tận.
saha dassaneneva me, bhante, bhagavato cittaṃ pasīdi, surāmado ca pahīyi.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ nhất, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, paṭhamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
Rồi thưa Tôn giả, với tâm tịnh tín ấy, tôi hầu hạ Thế Tôn.
So kho ahaṃ, bhante, pasannacitto bhagavantaṃ payirupāsiṃ.
Rồi Thế Tôn thuyết pháp thuận thứ cho tôi như thuyết pháp về:
Tassa me bhagavā anupubbiṃ kathaṃ kathesi, seyyathidaṃ—
bố thí, thuyết về giới, thuyết về cõi trời, nói lên sự nguy hại, sự hạ liệt, nhiễm ô của các dục và sự lợi ích của viễn ly.
dānakathaṃ sīlakathaṃ saggakathaṃ; kāmānaṃ ādīnavaṃ okāraṃ saṅkilesaṃ, nekkhamme ānisaṃsaṃ pakāsesi.
6. Khi Thế Tôn biết tôi tâm đã sẵn sàng, tâm đã nhu thuận, tâm không triền cái, tâm được phấn khởi, tâm được hoan hỷ, Thế Tôn mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương đề cao:
Yadā maṃ bhagavā aññāsi kallacittaṃ muducittaṃ vinīvaraṇacittaṃ udaggacittaṃ pasannacittaṃ, atha yā buddhānaṃ sāmukkaṃsikā dhammadesanā taṃ pakāsesi—
Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.
dukkhaṃ, samudayaṃ, nirodhaṃ, maggaṃ.
Cũng như một tấm vải thuần bạch, các chấm đen được gột rửa, rất dễ thấm màu nhuộm.
Seyyathāpi nāma suddhaṃ vatthaṃ apagatakāḷakaṃ sammadeva rajanaṃ paṭiggaṇheyya;
Cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên nơi tôi:
evamevaṃ kho me tasmiṃyeva āsane virajaṃ vītamalaṃ dhammacakkhuṃ udapādi:
‘Phàm pháp gì được tập khởi, tất cả Pháp ấy đều bị đoạn diệt.’
‘yaṃ kiñci samudayadhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodhadhamman’ti.
Rồi thưa Tôn giả, khi tôi thấy pháp, đạt pháp, biết pháp, thể nhập vào pháp, nghi ngờ được vượt qua, do dự trừ diệt, đạt được vô sở úy, không ý cứ người khác đối với pháp bậc Ðạo sư. Tại đấy, tôi quy y Phật, quy y Pháp và chúng Tăng, tôi thọ lãnh năm học pháp về Phạm hạnh.
So kho ahaṃ, bhante, diṭṭhadhammo pattadhammo viditadhammo pariyogāḷhadhammo tiṇṇavicikiccho vigatakathaṅkatho vesārajjappatto aparappaccayo satthusāsane tattheva buddhañca dhammañca saṅghañca saraṇaṃ agamāsiṃ, brahmacariyapañcamāni ca sikkhāpadāni samādiyiṃ.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ hai, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, dutiyo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
7. Thưa Tôn giả, tôi có bốn vợ đều còn trẻ tuổi.
Tassa mayhaṃ, bhante, catasso komāriyo pajāpatiyo ahesuṃ.
Rồi tôi đi đến các người vợ ấy; sau khi đến, tôi nói với các người vợ ấy như sau:
Atha khvāhaṃ, bhante, yena tā pajāpatiyo tenupasaṅkamiṃ; upasaṅkamitvā tā pajāpatiyo etadavacaṃ:
‘Này các vị, tôi đã thọ lãnh năm học pháp về Phạm hạnh.
‘mayā kho, bhaginiyo, brahmacariyapañcamāni sikkhāpadāni samādinnāni.
Ai muốn, hãy hưởng thọ tài sản ở chỗ này, hay làm các công đức, hay đi đến gia đình bà con của mình.
Yā icchati sā idheva bhoge ca bhuñjatu puññāni ca karotu, sakāni vā ñātikulāni gacchatu.
Hay ai có ưng ý người đàn ông nào, tôi sẽ cho các vị?’
Hoti vā pana purisādhippāyo, kassa vo dammī’ti?
Ðược nói như vậy, thưa Tôn giả, người vợ lớn của tôi nói với tôi:
Evaṃ vutte, sā, bhante, jeṭṭhā pajāpati maṃ etadavoca:
‘Thưa gia chủ Ugga, hãy cho tôi người đàn ông tên này.’
‘itthannāmassa maṃ, ayyaputta, purisassa dehī’ti.
Rồi thưa Tôn giả, tôi cho mời người ấy lại, với tay trái tôi cầm người vợ, với tay phải tôi cầm bình nước, rồi tôi rửa sạch người ấy.
Atha kho ahaṃ, bhante, taṃ purisaṃ pakkosāpetvā vāmena hatthena pajāpatiṃ gahetvā dakkhiṇena hatthena bhiṅgāraṃ gahetvā tassa purisassa oṇojesiṃ.
Thưa Tôn giả, từ khi bỏ người vợ trẻ, tâm tôi không có một chút đổi khác.
Komāriṃ kho panāhaṃ, bhante, dāraṃ pariccajanto nābhijānāmi cittassa aññathattaṃ.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ ba, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, tatiyo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
8. Thưa Tôn giả, có những tài sản ở trong gia đình tôi.
Saṃvijjanti kho pana me, bhante, kule bhogā.
chúng được phân chia giữa những người có giới và những người tốt lành.
Te ca kho appaṭivibhattā sīlavantehi kalyāṇadhammehi.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ tư, được có ở với tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, catuttho acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
9. Khi tôi hầu hạ một Tỷ-kheo,
Yaṃ kho panāhaṃ, bhante, bhikkhuṃ payirupāsāmi;
tôi hầu hạ rất cẩn thận, không phải không cẩn thận.
sakkaccaṃyeva payirupāsāmi, no asakkaccaṃ.
Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả ấy thuyết pháp cho tôi,
So ce me āyasmā dhammaṃ deseti;
tôi nghe hết sức cẩn thận, không phải không cẩn thận.
sakkaccaṃyeva suṇomi, no asakkaccaṃ.
Nếu Tôn giả ấy không thuyết pháp cho tôi, thời tôi thuyết pháp cho vị ấy.
No ce me so āyasmā dhammaṃ deseti, ahamassa dhammaṃ desemi.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ năm, được có ở tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, pañcamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
10. Thật không phải là vi diệu, thưa Tôn giả, khi tôi mời chúng Tăng, chư Thiên đến và bảo tôi:
Anacchariyaṃ kho pana, bhante, saṅghe nimantite devatā upasaṅkamitvā ārocenti:
‘Này gia chủ, Tỷ-kheo này là vị câu phần giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Tuệ giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Thân chứng; Tỷ-kheo này là vị Kiến chí; Tỷ-kheo này là vị Tín giải thoát; Tỷ-kheo này là vị Tùy pháp hành; Tỷ-kheo này là vị Tùy tín hành; vị này giữ giới, theo thiện pháp; vị này phá giới, theo ác pháp.’
‘asuko, gahapati, bhikkhu ubhatobhāgavimutto asuko paññāvimutto asuko kāyasakkhī asuko diṭṭhippatto asuko saddhāvimutto asuko dhammānusārī asuko saddhānusārī asuko sīlavā kalyāṇadhammo asuko dussīlo pāpadhammo’ti.
Nhưng khi tôi cúng dường chúng Tăng, tôi không cảm thấy có tâm như vậy khởi lên:
Saṅghaṃ kho panāhaṃ, bhante, parivisanto nābhijānāmi evaṃ cittaṃ uppādento:
‘Vị này tôi cúng ít hay Vị này tôi cúng nhiều.’
‘imassa vā thokaṃ demi imassa vā bahukan’ti.
Nhưng thưa Tôn giả, tôi cúng với tâm bình đẳng.
Atha khvāhaṃ, bhante, samacittova demi.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ sáu, được có ở tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, chaṭṭho acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
11. Thật không phải là vi diệu, thưa Tôn giả, chư Thiên sau khi đến, bảo tôi:
Anacchariyaṃ kho pana maṃ, bhante, devatā upasaṅkamitvā ārocenti:
‘Này gia chủ, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng!’
‘svākkhāto, gahapati, bhagavatā dhammo’ti.
Khi được nói vậy, thưa Tôn giả, tôi nói với chư Thiên ấy như sau:
Evaṃ vutte, ahaṃ, bhante, tā devatā evaṃ vademi:
‘Dầu cho chư Thiên các người có nói như vậy hay không nói như vậy, pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng!’
‘vadeyyātha vā evaṃ kho tumhe devatā no vā vadeyyātha, atha kho svākkhāto bhagavatā dhammo’ti.
Thưa Tôn giả, tuy vậy tâm tôi không có tự hào về nhân duyên ấy, nghĩa là:
Na kho panāhaṃ, bhante, abhijānāmi tatonidānaṃ cittassa unnatiṃ:
Chư Thiên đến với ta, ta cùng nói chuyện với chư Thiên.
‘maṃ tā devatā upasaṅkamanti, ahaṃ vā devatāhi saddhiṃ sallapāmī’ti.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu, chưa từng có thứ bảy, được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, sattamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
12. Thưa Tôn giả, nếu tôi mệnh chung trước Thế Tôn, đây không có gì là vi diệu, nếu Thế Tôn nói về tôi như sau:
Sace kho panāhaṃ, bhante, bhagavato paṭhamataraṃ kālaṃ kareyyaṃ, anacchariyaṃ kho panetaṃ yaṃ maṃ bhagavā evaṃ byākareyya:
‘Không có một kiết sử nào, do kiết sử ấy, gia chủ Ugga người làng Hatthigāma có thể trở lui lại đời này.’
‘natthi taṃ saṃyojanaṃ yena saṃyutto uggo gahapati hatthigāmako puna imaṃ lokaṃ āgaccheyyā’ti.
Thưa Tôn giả, đây là pháp vi diệu chưa từng có thứ tám được có ở nơi tôi.
Ayaṃ kho me, bhante, aṭṭhamo acchariyo abbhuto dhammo saṃvijjati.
Thưa Tôn giả, tám pháp vi diệu chưa từng có này có mặt.
Ime kho me, bhante, aṭṭha acchariyā abbhutā dhammā saṃvijjanti.
Và tôi không biết Thế Tôn đã nói tôi thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có nào.”
Na ca kho ahaṃ jānāmi: ‘katamehi cāhaṃ aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato bhagavatā byākato’”ti.
13. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ ăn khất thực tại trú xứ của gia chủ Ugga, người làng Hatthigāma, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.
Atha kho so bhikkhu uggassa gahapatino hatthigāmakassa nivesane piṇḍapātaṃ gahetvā uṭṭhāyāsanā pakkāmi.
Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
Atha kho so bhikkhu pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi.
Ngồi xuống một bên, Tỷ-kheo ấy đem tất cả câu chuyện nói với gia chủ Ugga người Hatthigāma thuật lại với Thế Tôn.
Ekamantaṃ nisinno kho so bhikkhu yāvatako ahosi uggena gahapatinā hatthigāmakena saddhiṃ kathāsallāpo, taṃ sabbaṃ bhagavato ārocesi.
“14. Lành thay, lành thay! này Tỷ-kheo.
“Sādhu sādhu, bhikkhu.
Gia chủ Ugga người Hatthigāma nếu có trả lời một cách chơn chánh, có thể trả lời như vậy. Này Tỷ-kheo, gia chủ Ugga người Hatthigāma thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này.
Yathā taṃ uggo gahapati hatthigāmako sammā byākaramāno byākareyya, imeheva kho, bhikkhu, aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgato uggo gahapati hatthigāmako mayā byākato.
Như Ta đã nói, này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng gia chủ Ugga, người Hatthigāma, được thành tựu tám pháp vi diệu chưa từng có này.”
Imehi ca pana, bhikkhu, aṭṭhahi acchariyehi abbhutehi dhammehi samannāgataṃ uggaṃ gahapatiṃ hatthigāmakaṃ dhārehī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt