Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 8.6

Tăng Chi Bộ 8.6
Aṅguttara Nikāya 8.6

1. Phẩm Từ
1. Mettāvagga

Tùy Chuyển Thế Giới (2)
Dutiyalokadhammasutta

“1. Tám thế gian pháp này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này. Thế nào là tám?
“Aṭṭhime, bhikkhave, lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca aṭṭha lokadhamme anuparivattati. Katame aṭṭha?

2. Lợi dưỡng và không lợi dưỡng, danh vọng và không danh vọng, tán thán và chỉ trích, an lạc và đau khổ.
Lābho ca, alābho ca, yaso ca, ayaso ca, nindā ca, pasaṃsā ca, sukhañca, dukkhañca.

Tám pháp thế gian này, này các Tỷ-kheo, tùy chuyển thế giới. Thế giới tùy chuyển theo tám pháp thế gian này.
Ime kho, bhikkhave, aṭṭha lokadhammā lokaṃ anuparivattanti, loko ca ime aṭṭha lokadhamme anuparivattati.

3. Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các Tỷ-kheo, sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ.
Assutavato, bhikkhave, puthujjanassa uppajjati lābhopi alābhopi yasopi ayasopi nindāpi pasaṃsāpi sukhampi dukkhampi.

Với vị Thánh đệ tử nghe pháp, cũng sanh ra lợi dưỡng, không lợi dưỡng, danh vọng, không danh vọng, tán thán, chỉ trích, an lạc, đau khổ.
Sutavatopi, bhikkhave, ariyasāvakassa uppajjati lābhopi alābhopi yasopi ayasopi nindāpi pasaṃsāpi sukhampi dukkhampi.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có đặc thù gì, thù thắng gì, có sai khác gì giữa vị Thánh có nghe pháp và kẻ phàm phu không có nghe pháp?”
Tatra, bhikkhave, ko viseso ko adhippayāso kiṃ nānākaraṇaṃ sutavato ariyasāvakassa assutavatā puthujjanenā”ti?

“Bạch Thế Tôn, các pháp lấy Thế Tôn làm căn bản, lấy Thế Tôn làm chỉ đạo, lấy Thế Tôn làm chỗ nương tựa. Lành thay, bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn giảng cho ý nghĩa của lời nói này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.”
“Bhagavaṃmūlakā no, bhante, dhammā bhagavaṃnettikā bhagavaṃpaṭisaraṇā. Sādhu vata, bhante, bhagavantaṃyeva paṭibhātu etassa bhāsitassa attho. Bhagavato sutvā bhikkhū dhāressantī”ti.

“Vậy này các Tỷ-kheo, hãy lắng nghe và suy niệm kỹ, Ta sẽ nói.”
“Tena hi, bhikkhave, suṇātha, sādhukaṃ manasi karotha, bhāsissāmī”ti.

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Thế Tôn nói như sau:
Bhagavā etadavoca:

“4. Với kẻ phàm phu không nghe pháp, này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng.
“assutavato, bhikkhave, puthujjanassa uppajjati lābho.

Vị ấy không có suy tư:
So na iti paṭisañcikkhati:

‘Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta,
‘uppanno kho me ayaṃ lābho;

lợi dưỡng ấy vô thường, khổ, biến hoại.’ Vị ấy không như thật rõ biết.
so ca kho anicco dukkho vipariṇāmadhammo’ti yathābhūtaṃ nappajānāti.

khởi lên không lợi dưỡng …
Uppajjati alābho ...pe...

khởi lên danh vọng …
uppajjati yaso …

khởi lên không danh vọng …
uppajjati ayaso …

khởi lên chỉ trích …
uppajjati nindā …

khởi lên tán thán …
uppajjati pasaṃsā …

khởi lên an lạc …
uppajjati sukhaṃ …

khởi lên khổ đau.
uppajjati dukkhaṃ.

Vị ấy không có suy tư:
So na iti paṭisañcikkhati:

‘Khổ này khởi lên nơi ta;
‘uppannaṃ kho me idaṃ dukkhaṃ;

khổ ấy là vô thường khổ, biến hoại.’ Vị ấy không như thật rõ biết.
tañca kho aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhamman’ti yathābhūtaṃ nappajānāti.

rằng lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, tán thán xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và an trú, an lạc xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập tâm của người ấy và an trú.
Tassa lābhopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, alābhopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, yasopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, ayasopi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, nindāpi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, pasaṃsāpi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, sukhampi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati, dukkhampi cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati.

Người ấy thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên và nghịch ứng với không lợi dưỡng;
So uppannaṃ lābhaṃ anurujjhati, alābhe paṭivirujjhati;

thuận ứng với danh vọng được khởi lên và nghịch ứng với không danh vọng;
uppannaṃ yasaṃ anurujjhati, ayase paṭivirujjhati;

thuận ứng với tán thán được khởi lên và nghịch ứng với chỉ trích;
uppannaṃ pasaṃsaṃ anurujjhati, nindāya paṭivirujjhati;

thuận ứng với an lạc được khởi lên và nghịch ứng với đau khổ;
uppannaṃ sukhaṃ anurujjhati, dukkhe paṭivirujjhati.

Người ấy đầy đủ thuận ứng, nghịch ứng như vậy, không có giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ta nói rằng, người ấy không thoát khỏi khổ.
So evaṃ anurodhavirodhasamāpanno na parimuccati jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi.

5. Với vị Thánh đệ tử có nghe pháp. Này các Tỷ-kheo, khởi lên lợi dưỡng.
‘Na parimuccati dukkhasmā’ti vadāmi. Sutavato ca kho, bhikkhave, ariyasāvakassa uppajjati lābho.

Vị ấy có suy tư:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Lợi dưỡng này khởi lên nơi ta;
‘uppanno kho me ayaṃ lābho;

lợi dưỡng ấy vô thường, đau khổ, biến hoại.’ Vị ấy như thật rõ biết.
so ca kho anicco dukkho vipariṇāmadhammo’ti yathābhūtaṃ pajānāti.

khởi lên không lợi dưỡng …
Uppajjati alābho ...pe...

khởi lên danh vọng …
uppajjati yaso …

khởi lên không danh vọng …
uppajjati ayaso …

khởi lên chỉ trích …
uppajjati nindā …

khởi lên tán thán …
uppajjati pasaṃsā …

khởi lên an lạc …
uppajjati sukhaṃ …

khởi lên khổ đau.
uppajjati dukkhaṃ.

Vị ấy có suy tư:
So iti paṭisañcikkhati:

‘Ðau khổ này khởi lên nơi ta.
‘uppannaṃ kho me idaṃ dukkhaṃ;

đau khổ ấy là vô thường, khổ đau, biến hoại.’ Vị ấy như thật rõ biết.
tañca kho aniccaṃ dukkhaṃ vipariṇāmadhamman’ti yathābhūtaṃ pajānāti.

rằng lợi dưỡng không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không lợi dưỡng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, danh vọng không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, không danh vọng xâm nhập tâm của người ấy và an trú, tán thán không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, chỉ trích xâm nhập tâm của người ấy và an trú, an lạc không xâm nhập tâm của người ấy và an trú, đau khổ xâm nhập tâm của người ấy và an trú
Tassa lābhopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, alābhopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, yasopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, ayasopi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, nindāpi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, pasaṃsāpi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, sukhampi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati, dukkhampi cittaṃ na pariyādāya tiṭṭhati.

Vị ấy không thuận ứng với lợi dưỡng được khởi lên, không nghịch ứng với không lợi dưỡng;
So uppannaṃ lābhaṃ nānurujjhati, alābhe nappaṭivirujjhati;

không thuận ứng với danh vọng được khởi lên, không nghịch ứng với không danh vọng;
uppannaṃ yasaṃ nānurujjhati, ayase nappaṭivirujjhati;

không thuận ứng với tán thán được khởi lên, không nghịch ứng với chỉ trích;
uppannaṃ pasaṃsaṃ nānurujjhati, nindāya nappaṭivirujjhati;

không thuận ứng với an lạc được khởi lên, không nghịch ứng với đau khổ;
uppannaṃ sukhaṃ nānurujjhati, dukkhe nappaṭivirujjhati.

Vị ấy do đoạn tận thuận ứng, nghịch ứng như vậy, nên giải thoát khỏi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.
So evaṃ anurodhavirodhavippahīno parimuccati jātiyā jarāya maraṇena sokehi paridevehi dukkhehi domanassehi upāyāsehi.

Ta nói rằng, vị ấy thoát khỏi khổ.
‘Parimuccati dukkhasmā’ti vadāmi.

Ðây là đặc thù, này các Tỷ-kheo, đây là thù thắng, đây là sai biệt giữa vị Thánh đệ tử có nghe pháp và kẻ phàm phu không nghe pháp.
Ayaṃ kho, bhikkhave, viseso ayaṃ adhippayāso idaṃ nānākaraṇaṃ sutavato ariyasāvakassa assutavatā puthujjanenāti.

Lợi dưỡng, không lợi dưỡng,
Danh vọng, không danh vọng,
Tán thán và chỉ trích,
An lạc và đau khổ,
Những pháp này vô thường,
Không thường hằng biến diệt.
Lābho alābho ca yasāyaso ca,
Nindā pasaṃsā ca sukhaṃ dukhañca;
Ete aniccā manujesu dhammā,
Asassatā vipariṇāmadhammā.

Biết chúng giữ chánh niệm,
Bậc trí quán biến diệt,
Pháp khả ái, không động,
Không khả ái, không sân.
Ete ca ñatvā satimā sumedho,
Avekkhati vipariṇāmadhamme;
Iṭṭhassa dhammā na mathenti cittaṃ,
Aniṭṭhato no paṭighātameti.

Các pháp thuận hay nghịch,
Ðược tiêu tan không còn,
Sau khi biết con đường,
Không trần cấu, không sầu,
Chơn chánh biết sanh hữu,
Ði đến bờ bên kia.
Tassānurodhā atha vā virodhā,
Vidhūpitā atthaṅgatā na santi;
Padañca ñatvā virajaṃ asokaṃ,
Sammappajānāti bhavassa pāragū”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt