Tăng Chi Bộ 8.64
Aṅguttara Nikāya 8.64
7. Phẩm Đất Rung Động
7. Bhūmicālavagga
Tại Gayà
Gayāsīsasutta
1. Một thời, Thế Tôn trú ở Gayasisa. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo: “Này các Tỷ-kheo” – “Thưa vâng, bạch Thế Tôn”. Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Ekaṃ samayaṃ bhagavā gayāyaṃ viharati gayāsīse. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi ...pe...
“2. Này các Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, chưa thành Chánh Ðẳng Giác, Ta còn làm Bồ Tát, Ta tưởng tri ánh sáng, Ta không thấy sắc.
“pubbāhaṃ, bhikkhave, sambodhā anabhisambuddho bodhisattova samāno obhāsaññeva kho sañjānāmi, no ca rūpāni passāmi.
Này các Tỷ-kheo, rồi Ta suy nghĩ:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Nếu Ta có thể tưởng tri ánh sáng và Ta có thể thấy được màu sắc;
‘sace kho ahaṃ obhāsañceva sañjāneyyaṃ rūpāni ca passeyyaṃ;
như vậy tri kiến của Ta được thanh tịnh hơn lên.’
evaṃ me idaṃ ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc.
So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi;
Nhưng Ta không giao thiệp với chư Thiên ấy, không nói chuyện, không thảo luận.
no ca kho tāhi devatāhi saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi.
3. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Nếu Ta có thể tưởng tri ánh sáng có thể thấy được các sắc, có thể giao thiệp với chư Thiên ấy, có thể nói chuyện, có thể thảo luận;
‘sace kho ahaṃ obhāsañceva sañjāneyyaṃ, rūpāni ca passeyyaṃ, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭheyyaṃ sallapeyyaṃ sākacchaṃ samāpajjeyyaṃ;
như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn lên.’
evaṃ me idaṃ ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’ti.
Và này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, và cùng chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện và thảo luận.
So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi;
Nhưng Ta không biết về các chư Thiên ấy: “Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, thuộc về Thiên chúng này”.
no ca kho tā devatā jānāmi— imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyāti.
4. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Nếu Ta tưởng tri ánh sáng, thấy được các sắc, giao thiệp với chư Thiên ấy, nói chuyện, thảo luận với chư Thiên ấy và biết được về chư Thiên ấy:
‘sace kho ahaṃ obhāsañceva sañjāneyyaṃ, rūpāni ca passeyyaṃ, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭheyyaṃ sallapeyyaṃ sākacchaṃ samāpajjeyyaṃ, tā ca devatā jāneyyaṃ:
Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, thuộc về Thiên chúng này.
“imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyā”ti;
như vậy, tri kiến này của Ta được thanh tịnh hơn.’
evaṃ me idaṃ ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’ti.
Rồi này các Tỷ-kheo, sau một thời gian Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tưởng tri ánh sáng và thấy được các sắc, và cùng chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện, thảo luận với chư Thiên ấy, biết được:
So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi, tā ca devatā jānāmi:
Chư Thiên này thuộc về Thiên chúng này, Thiên chúng này
‘imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyā’ti;
nhưng Ta không biết được:
no ca kho tā devatā jānāmi:
Chư Thiên này do quả dị thục của nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại chỗ ấy.
‘imā devatā imassa kammassa vipākena ito cutā tattha upapannā’ti ...pe...
Ta biết được chư Thiên ấy:
tā ca devatā jānāmi:
Chư Thiên này do quả dị thục của nghiệp này, chết từ đây sanh ra tại chỗ ấy
‘imā devatā imassa kammassa vipākena ito cutā tattha upapannā’ti;
nhưng Ta không biết được:
no ca kho tā devatā jānāmi:
Chư Thiên này, do đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này.
‘imā devatā imassa kammassa vipākena evamāhārā evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti ...pe...
Ta biết được:
tā ca devatā jānāmi:
Chư Thiên này, do đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này.
‘imā devatā imassa kammassa vipākena evamāhārā evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti;
nhưng Ta không biết được chư Thiên ấy:
no ca kho tā devatā jānāmi:
Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này.
‘imā devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti ...pe...
Ta biết được:
tā ca devatā jānāmi:
Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này.
‘imā devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti;
nhưng Ta không biết chư Thiên ấy: “Trước đây Ta có cùng ở với chư Thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với chư Thiên này”.
no ca kho tā devatā jānāmi yadi vā me imāhi devatāhi saddhiṃ sannivutthapubbaṃ yadi vā na sannivutthapubbanti.
5. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhikkhave, etadahosi:
‘Nếu Ta nhận thức được ánh sáng, thấy được các sắc, cùng với chư Thiên ấy giao thiệp, nói chuyện, thảo luận, Ta có thể biết được chư Thiên ấy:
‘sace kho ahaṃ obhāsañceva sañjāneyyaṃ, rūpāni ca passeyyaṃ, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭheyyaṃ sallapeyyaṃ sākacchaṃ samāpajjeyyaṃ, tā ca devatā jāneyyaṃ:
“Chư Thiên này thuộc Thiên chúng này, thuộc Thiên chúng này”. Ta có thể biết được chư Thiên ấy:
“imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyā”ti, tā ca devatā jāneyyaṃ:
“Chư Thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này, sanh tại chỗ ấy”. Ta có thể biết được chư Thiên ấy:
“imā devatā imassa kammassa vipākena ito cutā tattha upapannā”ti, tā ca devatā jāneyyaṃ:
“Chư Thiên này, do ăn đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này”; Ta có thể biết được chư Thiên ấy:
“imā devatā evamāhārā evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo”ti, tā ca devatā jāneyyaṃ:
“Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này”; Ta có thể biết được chư Thiên ấy: “Chư Thiên này, trước đây Ta có cùng ở với chư Thiên này, hay trước đây Ta không cùng ở với chư Thiên này”
“imā devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā”ti, tā ca devatā jāneyyaṃ yadi vā me imāhi devatāhi saddhiṃ sannivutthapubbaṃ yadi vā na sannivutthapubbanti;
như vậy, tri kiến của Ta được thanh tịnh hơn trước.’
evaṃ me idaṃ ñāṇadassanaṃ parisuddhataraṃ assā’ti.
Này các Tỷ-kheo, sau một thời gian sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, Ta tưởng tri ánh sáng, thấy được các sắc, Ta giao thiệp, nói chuyện, thảo luận với các chư Thiên ấy, Ta biết được chư Thiên ấy:
So kho ahaṃ, bhikkhave, aparena samayena appamatto ātāpī pahitatto viharanto obhāsañceva sañjānāmi, rūpāni ca passāmi, tāhi ca devatāhi saddhiṃ santiṭṭhāmi sallapāmi sākacchaṃ samāpajjāmi, tā ca devatā jānāmi:
“Chư Thiên này thuộc Thiên chúng này, thuộc Thiên chúng này”. Ta biết được chư Thiên ấy:
‘imā devatā amukamhā vā amukamhā vā devanikāyā’ti, tā ca devatā jānāmi:
“Chư Thiên này, do quả dị thục của nghiệp này, chết tại chỗ này, sanh tại chỗ ấy”. Ta biết được chư Thiên ấy:
‘imā devatā imassa kammassa vipākena ito cutā tattha upapannā’ti, tā ca devatā jānāmi:
“Chư Thiên này, do ăn đồ ăn như thế này, cảm thọ khổ lạc như thế này”; Ta biết được chư Thiên ấy:
‘imā devatā evamāhārā evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvediniyo’ti, tā ca devatā jānāmi:
“Chư Thiên này, tuổi thọ dài như thế này, tồn tại lâu dài như thế này”; Ta biết được chư Thiên ấy: “Chư Thiên này, trước đây Ta có cùng ở với chư Thiên này, hay trước đây Ta không có ở cùng với chư Thiên này”.
‘imā devatā evaṃdīghāyukā evaṃciraṭṭhitikā’ti, tā ca devatā jānāmi yadi vā me devatāhi saddhiṃ sannivutthapubbaṃ yadi vā na sannivutthapubbanti.
6. Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc thượng giới Thiên này không được khéo thanh tịnh nơi Ta, thời Ta không có xác chứng trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, rằng Ta đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác.
Yāvakīvañca me, bhikkhave, evaṃ aṭṭhaparivaṭṭaṃ adhidevañāṇadassanaṃ na suvisuddhaṃ ahosi, neva tāvāhaṃ, bhikkhave, ‘sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ.
Này các Tỷ-kheo, cho đến khi nào tri kiến gồm có tám diễn tiến và thuộc thượng giới Thiên này được khéo thanh tịnh nơi ta, thời Ta có xác chứng trong thế giới chư Thiên với Ma giới, Phạm Thiên giới, với quần chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, rằng Ta đã chứng ngộ Vô Thượng Chánh Ðẳng Giác.
Yato ca kho me, bhikkhave, evaṃ aṭṭhaparivaṭṭaṃ adhidevañāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athāhaṃ, bhikkhave, ‘sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrāhmaṇiyā pajāya sadevamanussāya anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ;
Tri kiến khởi lên nơi Ta:
ñāṇañca pana me dassanaṃ udapādi;
‘Bất động là tâm giải thoát của Ta. Ðây là đời sống cuối cùng, không còn tái sanh nữa.’”
akuppā me cetovimutti; ayamantimā jāti natthi dāni punabbhavo”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt