Tăng Chi Bộ 9.26
Aṅguttara Nikāya 9.26
3. Chỗ Cư Trú Của Hữu Tình
3. Sattāvāsavagga
Trụ Ðá
Silāyūpasutta
1. Như vầy tôi nghe:
evaṃ me sutaṃ.
Một thời, Tôn giả Sāriputta và Tôn giả Candikāputta trú ở Rājagaha (Vương Xá) tại Trúc Lâm, chỗ nuôi dưỡng các con sóc.
Ekaṃ samayaṃ āyasmā ca sāriputto āyasmā ca candikāputto rājagahe viharanti veḷuvane kalandakanivāpe.
Tại đấy, Tôn giả Candikāputta gọi các Tỷ-kheo, nói rằng:
Tatra kho āyasmā candikāputto bhikkhū āmantesi (…)
“Này các Hiền giả, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
“devadatto, āvuso, bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti:
‘Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā citaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
“Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.’”’”
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’”ti.
2. Ðược nói vậy, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Candikāputta:
Evaṃ vutte, āyasmā sāriputto āyasmantaṃ candikāputtaṃ etadavoca:
“Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta không có thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
“na kho, āvuso candikāputta, devadatto bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti:
‘Thưa các Hiền giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā citaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
‘Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa””.
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti.
Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
Evañca kho, āvuso, candikāputta, devadatto bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti:
‘Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập với tâm ý thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
“Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa.”’”
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’”ti.
3. Lần thứ hai, Tôn giả Candikāputta gọi các Tỷ-kheo, nói rằng:
Dutiyampi kho āyasmā candikāputto bhikkhū āmantesi:
“Thưa các Hiền giả, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau: ‘Khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho vị Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
“devadatto, āvuso, bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti: ‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā citaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
“Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa””.
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’”ti.
Lần thứ hai, Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Candikāputta:
Dutiyampi kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ candikāputtaṃ etadavoca:
“Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta không có thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau: ‘Thưa các Hiền giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
“na kho, āvuso candikāputta, devadatto bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti: ‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā citaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
“Ta rõ biết: “Sanh đã tận… không còn trở lui trạng thái này nữa””.
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti.
Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
Evañca kho, āvuso candikāputta, devadatto bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti:
‘Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập với tâm ý thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
“Ta rõ biết: “Sanh đã tận… không còn trở lui trạng thái này nữa””.
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’”ti.
Lần thứ ba, Tôn giả Candikāputta gọi các Tỷ-kheo, nói rằng:
Tatiyampi kho āyasmā candikāputto bhikkhū āmantesi:
Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta không có thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
“devadatto, āvuso, bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti:
“Thưa các Hiền giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau: “Ta rõ biết: “Sanh đã tận… không còn trở lui trạng thái này nữa””.
‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā citaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’”ti.
Lần thứ ba Tôn giả Sāriputta nói với Tôn giả Candikāputta:
Tatiyampi kho āyasmā sāriputto āyasmantaṃ candikāputtaṃ etadavoca:
“Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta không có thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau: “Thưa các Hiền giả, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
“na kho, āvuso candikāputta, devadatto bhikkhūnaṃ evaṃ dhammaṃ deseti: ‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā citaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa””.
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti.
Này Hiền giả Candikāputta, Devadatta thuyết pháp cho các Tỷ-kheo như sau:
Evañca kho, āvuso candikāputta, devadatto bhikkhūnaṃ dhammaṃ deseti:
‘Thưa các Hiền giả, khi nào tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập với tâm ý thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy trả lời như sau:
‘yato kho, āvuso, bhikkhuno cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti, tassetaṃ bhikkhuno kallaṃ veyyākaraṇāya—
“Ta rõ biết: ‘Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa’”.
khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti.
4. Và như thế nào, này Hiền giả, tâm vị Tỷ-kheo được khéo tích tập với tâm ý?
Kathañca, āvuso, bhikkhuno cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti?
“Ly tham là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘Vītarāgaṃ me cittan’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Ly sân là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘vītadosaṃ me cittan’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Ly si là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘vītamohaṃ me cittan’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Tánh không có tham là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘asarāgadhammaṃ me cittan’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Tánh không có sân là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘asadosadhammaṃ me cittan’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Tánh không có si là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘asamohadhammaṃ me cittan’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Tánh không chuyển hướng về dục hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘anāvattidhammaṃ me cittaṃ kāmabhavāyā’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Tánh không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘anāvattidhammaṃ me cittaṃ rūpabhavāyā’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti;
“Tánh không chuyển hướng về vô sắc hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với tâm ý.
‘anāvattidhammaṃ me cittaṃ arūpabhavāyā’ti cetasā cittaṃ suparicitaṃ hoti.
5. Như vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo có tâm chánh giải thoát như vậy, nếu các sắc do mắt nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vực của con mắt, các sắc không chinh phục tâm vị ấy, tâm được an trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động.
Evaṃ sammā vimuttacittassa kho, āvuso, bhikkhuno bhusā cepi cakkhuviññeyyā rūpā cakkhussa āpāthaṃ āgacchanti, nevassa cittaṃ pariyādiyanti; amissīkatamevassa cittaṃ hoti ṭhitaṃ āneñjappattaṃ, vayaṃ cassānupassati.
Ví như, này Hiền giả, một trụ đá cao mười sáu khuỷu tay.
Seyyathāpi, āvuso, silāyūpo soḷasakukkuko.
Tám khuỷu tay chôn sâu xuống đất, tám khuỷu tay nổi lên trên.
Tassassu aṭṭha kukkū heṭṭhā nemaṅgamā, aṭṭha kukkū upari nemassa.
nếu từ phương Ðông, mưa to gió lớn đến, không làm rung động, không làm chuyển động, không làm chuyển động mạnh trụ đá ấy; nếu từ phương Tây… nếu từ phương Bắc…
Atha puratthimāya cepi disāya āgaccheyya bhusā vātavuṭṭhi, neva naṃ saṅkampeyya na sampavedheyya; atha pacchimāya … atha uttarāya …
nếu từ phương Nam, mưa to gió lớn đến, không làm rung động, không làm chuyển động, không làm chuyển động mạnh trụ đá ấy. Vì sao?
atha dakkhiṇāya cepi disāya āgaccheyya bhusā vātavuṭṭhi, neva naṃ saṅkampeyya na sampavedheyya. Taṃ kissa hetu?
Này Hiền giả, vì trụ đá được đào sâu, được chôn sâu.
Gambhīrattā, āvuso, nemassa, sunikhātattā silāyūpassa.
Cũng vậy, này Hiền giả, với Tỷ-kheo có tâm chánh giải thoát như vậy, nếu các sắc do mắt nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của con mắt, các sắc không chinh phục tâm của vị ấy, tâm được an trú không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng.
Evamevaṃ kho, āvuso, sammā vimuttacittassa bhikkhuno bhusā cepi cakkhuviññeyyā rūpā cakkhussa āpāthaṃ āgacchanti, nevassa cittaṃ pariyādiyanti; amissīkatamevassa cittaṃ hoti ṭhitaṃ āneñjappattaṃ, vayaṃ cassānupassati.
Nếu các tiếng do tai nhận thức …
Bhusā cepi sotaviññeyyā saddā …
Nếu các mùi do mũi nhận thức …
ghānaviññeyyā gandhā …
Nếu các vị do lưỡi nhận thức …
jivhāviññeyyā rasā …
Nếu các xúc chạm do thân nhận thức …
kāyaviññeyyā phoṭṭhabbā …
nếu các pháp do ý nhận thức mạnh mẽ đi vào giới vức của ý, các pháp không chinh phục tâm vị ấy, tâm được an trú, không bị tạp nhiễm, không bị lay động. Vị ấy tùy quán sự diệt tận của chúng”.
manoviññeyyā dhammā manassa āpāthaṃ āgacchanti, nevassa cittaṃ pariyādiyanti; amissīkatamevassa cittaṃ hoti ṭhitaṃ āneñjappattaṃ, vayaṃ cassānupassatī”ti.
Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt