Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 9.25

Tăng Chi Bộ 9.25
Aṅguttara Nikāya 9.25

3. Chỗ Cư Trú Của Hữu Tình
3. Sattāvāsavagga

Trí Tuệ
Paññāsutta

“1. Này các Tỷ-kheo, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy nói như sau:
“Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti, tassetaṃ, bhikkhave, bhikkhuno kallaṃ vacanāya:

“Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa”.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’ti.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ Tỷ-kheo được khéo tích tập?
Kathañca, bhikkhave, bhikkhuno paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti?

2. “Ly tham là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘Vītarāgaṃ me cittan’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Ly sân là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘vītadosaṃ me cittan’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Ly si là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘vītamohaṃ me cittan’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Tánh không có tham là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘asarāgadhammaṃ me cittan’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Tánh không có sân là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘asadosadhammaṃ me cittan’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Tánh không có si là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘asamohadhammaṃ me cittan’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Tánh không chuyển hướng về dục hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘anāvattidhammaṃ me cittaṃ kāmabhavāyā’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Tánh không chuyển hướng về sắc hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘anāvattidhammaṃ me cittaṃ rūpabhavāyā’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti;

“Tánh không chuyển hướng về vô sắc hữu là tâm của ta”, như vậy tâm vị ấy được khéo tích tập với trí tuệ.
‘anāvattidhammaṃ me cittaṃ arūpabhavāyā’ti paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti.

Này các Tỷ-kheo, khi nào tâm Tỷ-kheo được khéo tích tập với trí tuệ, thời thật hợp lý cho Tỷ-kheo ấy nói như sau:
Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno paññāya cittaṃ suparicitaṃ hoti, tassetaṃ, bhikkhave, bhikkhuno kallaṃ vacanāya:

‘Ta rõ biết: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui trạng thái này nữa””.
‘khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyāti pajānāmī’”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt