Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 9.3

Tăng Chi Bộ 9.3
Aṅguttara Nikāya 9.3

1. Phẩm Chánh Giác
1. Sambodhivagga

Tôn Giả Meghiya
Meghiyasutta

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Cālikā, tại núi Cālikā.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā cālikāyaṃ viharati cālikāpabbate.

Lúc bấy giờ, Tôn giả Meghiya là người thị giả Thế Tôn.
Tena kho pana samayena āyasmā meghiyo bhagavato upaṭṭhāko hoti.

Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā meghiyo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhito kho āyasmā meghiyo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, con muốn đi vào làng Jantu để khất thực.”
“icchāmahaṃ, bhante, jantugāmaṃ piṇḍāya pavisitun”ti.

“Này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời.”
“Yassadāni tvaṃ, meghiya, kālaṃ maññasī”ti.

2. Rồi Tôn giả Meghiya vào buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào làng Jantu để khất thực.
Atha kho āyasmā meghiyo pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya jantugāmaṃ piṇḍāya pāvisi.

Sau khi khất thực ở làng Jantu xong, sau buổi ăn, trên con đường khất thực trở về, đi đến bờ sông Kimikālā.
Jantugāme piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena kimikāḷāya nadiyā tīraṃ tenupasaṅkami.

Trong khi bộ hành, đi bách bộ qua lại trên bờ sông Kimikāla, Tôn giả Meghiya thấy một rừng xoài đẹp đẽ khả ái.
Addasā kho āyasmā meghiyo kimikāḷāya nadiyā tīre jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno ambavanaṃ pāsādikaṃ ramaṇīyaṃ.

Thấy vậy Tôn giả suy nghĩ:
Disvānassa etadahosi:

“Rừng xoài này thật là đẹp đẽ khả ái. Vậy thật là vừa đủ để cho thiện nam tử ưa thích tinh cần để tinh cần.
“pāsādikaṃ vatidaṃ ambavanaṃ ramaṇīyaṃ, alaṃ vatidaṃ kulaputtassa padhānatthikassa padhānāya.

Và nếu Thế Tôn chấp thuận, ta sẽ đi đến rừng xoài này để tinh cần.”
Sace maṃ bhagavā anujāneyya, āgaccheyyāhaṃ imaṃ ambavanaṃ padhānāyā”ti.

3. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên. Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā meghiyo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā meghiyo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, ở đây vào buổi sáng con đắp y, cầm y bát và đi vào làng Jantu để khất thực. Ði khất thực xong, sau buổi ăn, trên con đường đi khất thực trở về, con đi đến bờ sông Kimikālā.
“Idhāhaṃ, bhante, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya jantugāmaṃ piṇḍāya pāvisiṃ. Jantugāme piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto yena kimikāḷāya nadiyā tīraṃ tenupasaṅkamiṃ.

Bạch Thế Tôn, khi con bộ hành, đi bách bộ qua lại trên bờ sông Kimikālā, con thấy một rừng xoài đẹp đẽ khả ái.
Addasaṃ kho ahaṃ, bhante, kimikāḷāya nadiyā tīre jaṅghāvihāraṃ anucaṅkamamāno anuvicaramāno ambavanaṃ pāsādikaṃ ramaṇīyaṃ.

Thấy vậy, con suy nghĩ như sau:
Disvāna me etadahosi:

‘Rừng xoài này thật đẹp đẽ, khả ái.
‘pāsādikaṃ vatidaṃ ambavanaṃ ramaṇīyaṃ.

Vậy thật là vừa đủ cho thiện nam tử ưa thích tinh cần để tinh cần
Alaṃ vatidaṃ kulaputtassa padhānatthikassa padhānāya.

Và nếu Thế Tôn chấp thuận ta, ta sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần’.
Sace maṃ bhagavā anujāneyya, āgaccheyyāhaṃ imaṃ ambavanaṃ padhānāyā’ti.

“Và nếu Thế Tôn chấp thuận ta, ta sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần.”
Sace maṃ bhagavā anujāneyya, gaccheyyāhaṃ taṃ ambavanaṃ padhānāyā”ti.

“Hãy chờ đợi này Meghiya cho đến khi một Tỷ-kheo khác có mặt, vì chúng ta chỉ có một mình.”
“Āgamehi tāva, meghiya. Ekakamhi tāva yāva aññopi koci bhikkhu āgacchatī”ti.

4. Lần thứ hai, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Dutiyampi kho āyasmā meghiyo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, đối với Thế Tôn không có gì nữa cần phải làm thêm, không có cái gì cần phải làm thêm vào sự việc đã làm.
“bhagavato, bhante, natthi kiñci uttari karaṇīyaṃ, natthi katassa paṭicayo.

Còn con, bạch Thế Tôn, có sự việc cần phải làm thêm, còn có việc cần phải làm thêm vào sự việc đã làm.
Mayhaṃ kho pana, bhante, atthi uttari karaṇīyaṃ, atthi katassa paṭicayo.

Nếu Thế Tôn chấp thuận con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần.”
Sace maṃ bhagavā anujāneyya, gaccheyyāhaṃ taṃ ambavanaṃ padhānāyā”ti.

“Hãy chờ đợi này Maghiya, cho đến khi một Tỷ-kheo khác có mặt, vì chúng ta chỉ có một mình.”
“Āgamehi tāva, meghiya, ekakamhi tāva yāva aññopi koci bhikkhu āgacchatī”ti.

5. Lần thứ ba, Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Tatiyampi kho āyasmā meghiyo bhagavantaṃ etadavoca:

“Bạch Thế Tôn, Thế Tôn không có gì nữa cần phải làm thêm, không có cái gì cần phải thêm vào sự việc đã làm.
“bhagavato, bhante, natthi kiñci uttari karaṇīyaṃ, natthi katassa paṭicayo.

Còn con, bạch Thế Tôn, có sự việc cần phải làm thêm, còn có việc cần phải làm thêm vào sự việc đã làm.
Mayhaṃ kho pana, bhante, atthi uttari karaṇīyaṃ, atthi katassa paṭicayo.

Nếu Thế Tôn chấp thuận con, con sẽ đi đến rừng xoài ấy để tinh cần.”
Sace maṃ bhagavā anujāneyya, gaccheyyāhaṃ taṃ ambavanaṃ padhānāyā”ti.

“Này Meghia, khi Thầy đã nói tinh cần, thời chúng ta có thể còn nói gì nữa?
“Padhānanti kho, meghiya, vadamānaṃ kinti vadeyyāma.

Vậy này Meghiya, nay Thầy hãy làm những gì Thầy nghĩ là hợp thời.”
Yassadāni tvaṃ, meghiya, kālaṃ maññasī”ti.

6. Rồi Tôn giả Meghiya từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, ra đi đến rừng xoài ấy, sau khi đến, đi sâu vào rừng xoài, rồi ngồi nghỉ ban ngày dưới một gốc cây.
Atha kho āyasmā meghiyo uṭṭhāyāsanā bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā yena taṃ ambavanaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā taṃ ambavanaṃ ajjhogāhetvā aññatarasmiṃ rukkhamūle divāvihāraṃ nisīdi.

Trong khi Tôn giả Meghiya trú trong rừng ấy, phần lớn ba ác bất thiện tầm hiện hành, tức là—
Atha kho āyasmato meghiyassa tasmiṃ ambavane viharantassa yebhuyyena tayo pāpakā akusalā vitakkā samudācaranti, seyyathidaṃ—

dục tầm, sân tầm và hại tầm.
kāmavitakko, byāpādavitakko, vihiṃsāvitakko.

Rồi Tôn giả Meghiya suy nghĩ như sau:
Atha kho āyasmato meghiyassa etadahosi:

“Thật vi diệu thay, thật hy hữu thay.
“acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho.

Ta vì lòng tin đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Saddhāya ca vatamhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā;

Nhưng ba ác bất thiện tầm này xâm nhập tức là:
atha ca panimehi tīhi pāpakehi akusalehi vitakkehi anvāsattā—

dục tầm, sân tầm, hại tầm.”
kāmavitakkena, byāpādavitakkena, vihiṃsāvitakkenā”ti.

7. Rồi Tôn giả Meghiya đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Meghiya bạch Thế Tôn:
Atha kho āyasmā meghiyo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā meghiyo bhagavantaṃ etadavoca:

Ở đây, bạch Thế Tôn, khi con sống tại rừng xoài ấy, ba ác bất thiện tầm hiện hành, tức là:
“Idha mayhaṃ, bhante, tasmiṃ ambavane viharantassa yebhuyyena tayo pāpakā akusalā vitakkā samudācaranti, seyyathidaṃ—

dục tầm, sân tầm, hại tầm.
kāmavitakko, byāpādavitakko, vihiṃsāvitakko.

Bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau:
Tassa mayhaṃ, bhante, etadahosi:

‘Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay!
‘acchariyaṃ vata bho, abbhutaṃ vata bho.

Ta vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.
Saddhāya ca vatamhā agārasmā anagāriyaṃ pabbajitā;

Nhưng ba ác bất thiện tầm này xâm nhập, tức là:
atha ca panimehi tīhi pāpakehi akusalehi vitakkehi anvāsattā—

dục tầm, sân tầm, hại tầm.”
kāmavitakkena, byāpādavitakkena, vihiṃsāvitakkenā’”ti.

“Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, năm pháp đưa đến thuần thục. Thế nào là năm?
“Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā pañca dhammā paripakkāya saṃvattanti. Katame pañca?

8. Ở đây, này Meghiya, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện.
Idha, meghiya, bhikkhu kalyāṇamitto hoti kalyāṇasahāyo kalyāṇasampavaṅko.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ nhất đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ paṭhamo dhammo paripakkāya saṃvattati.

9. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo có giới, sống được bảo vệ sự bảo vệ của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong những lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và tu học trong các học pháp.
Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu sīlavā hoti, pātimokkhasaṃvarasaṃvuto viharati ācāragocarasampanno aṇumattesu vajjesu bhayadassāvī, samādāya sikkhati sikkhāpadesu.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ hai đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ dutiyo dhammo paripakkāya saṃvattati.

10. Lại nữa, này Meghiya, câu chuyện này có khả năng đoạn giảm (hướng thượng) đưa đến tâm được rộng mở, như luận về ít dục, luận về biết đủ, luận về viễn ly, luận về không tụ hội, luận về tinh tấn tinh cần, luận về giới, luận về định, luận về tuệ, luận về giải thoát, luận về giải thoát tri kiến. Những câu chuyện như vậy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
Puna caparaṃ, meghiya, yāyaṃ kathā abhisallekhikā cetovivaraṇasappāyā, seyyathidaṃ—appicchakathā santuṭṭhikathā pavivekakathā asaṃsaggakathā vīriyārambhakathā sīlakathā samādhikathā paññākathā vimuttikathā vimuttiñāṇadassanakathā, evarūpiyā kathāya nikāmalābhī hoti akicchalābhī akasiralābhī.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ ba đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ tatiyo dhammo paripakkāya saṃvattati.

11. Lại nữa, này Meghiya, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn để đoạn tận các pháp bất thiện, để được đầy đủ các pháp thiện, nỗ lực, kiên trì không từ bỏ gánh nặng trong các thiện pháp.
Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu āraddhavīriyo viharati akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya, kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya, thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ tư đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ catuttho dhammo paripakkāya saṃvattati.

12. Lại nữa, này Meghiya, có trí tuệ, thành tựu trí tuệ về sanh và diệt, với Thánh thể nhập đi đến con đường đoạn tận khổ đau.
Puna caparaṃ, meghiya, bhikkhu paññavā hoti udayatthagāminiyā paññāya samannāgato ariyāya nibbedhikāya sammā dukkhakkhayagāminiyā.

Này Meghiya, với tâm giải thoát chưa được thuần thục, đây là pháp thứ năm đưa đến thuần thục.
Aparipakkāya, meghiya, cetovimuttiyā ayaṃ pañcamo dhammo paripakkāya saṃvattati.

13. Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau:
Kalyāṇamittassetaṃ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa:

‘sẽ sống có giới, được bảo vệ với sự bảo vệ của giới bổn Pātimokkha, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sợ hãi trong các lỗi nhỏ nhặt, chấp nhận và học tập trong các học pháp.’
‘sīlavā bhavissati ...pe... samādāya sikkhissati sikkhāpadesu’.

Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau:
Kalyāṇamittassetaṃ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa:

Câu chuyện này có khả năng đoạn giảm (hướng thượng) như luận về ít dục … Những câu chuyện như vậy có được không khó khăn, có được không mệt nhọc, có được không phí sức.
‘yāyaṃ kathā abhisallekhikā cetovivaraṇasappāyā, seyyathidaṃ—appicchakathā ...pe... vimuttiñāṇadassanakathā, evarūpiyā kathāya nikāmalābhī bhavissati akicchalābhī akasiralābhī’.

Này Meghiya, với Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: ‘Vị ấy sẽ sống tinh cần tinh tấn … không từ bỏ trách nhiệm trong các thiện pháp’.
Kalyāṇamittassetaṃ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa: ‘āraddhavīriyo viharissati ...pe... anikkhittadhuro kusalesu dhammesu’.

Này Meghiya, Tỷ-kheo làm bạn với thiện, thân hữu với thiện, giao thiệp với thiện, được chờ đợi như sau: ‘Vị ấy sẽ có trí tuệ … chơn chánh đoạn tận khổ đau’.
Kalyāṇamittassetaṃ, meghiya, bhikkhuno pāṭikaṅkhaṃ kalyāṇasahāyassa kalyāṇasampavaṅkassa: ‘paññavā bhavissati ...pe... sammādukkhakkhayagāminiyā’.

Và này Meghiya, khi Tỷ-kheo ấy đến trú trong năm pháp này, bốn pháp nữa cần phải tu tập:
Tena ca pana, meghiya, bhikkhunā imesu pañcasu dhammesu patiṭṭhāya cattāro dhammā uttari bhāvetabbā—

tu tập tưởng bất tịnh để đoạn tận tham ái, tu tập từ bi để đoạn tận sân, tu tập niệm hơi thở vô hơi thở ra để cắt đứt tầm, tu tập tưởng vô thường để phá hoại ngã mạn.
asubhā bhāvetabbā rāgassa pahānāya, mettā bhāvetabbā byāpādassa pahānāya, ānāpānassati bhāvetabbā vitakkupacchedāya, aniccasaññā bhāvetabbā asmimānasamugghātāya.

Này Meghiya, với Tỷ-kheo có tưởng vô thường, tưởng vô ngã được tồn tại.
Aniccasaññino, meghiya, anattasaññā saṇṭhāti.

Có tưởng vô ngã, thời ngã mạn bị phá hoại, ngay trong hiện tại đạt được Niết-bàn.”
Anattasaññī asmimānasamugghātaṃ pāpuṇāti diṭṭheva dhamme nibbānan”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt