Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Aṅguttara Nikāya - Tăng Chi Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Tăng Chi Bộ 9.37

Tăng Chi Bộ 9.37
Aṅguttara Nikāya 9.37

4. Đại Phẩm
4. Mahāvagga

Tôn Giả Ananda
Ānandasutta

Một thời, Tôn giả Ānanda trú ở Kosambī, tại khu vườn Ghosita. Tại đấy, Tôn giả Ānanda bảo các Tỷ-kheo:
Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Tatra kho āyasmā ānando bhikkhū āmantesi:

“Này chư Hiền Tỷ-kheo.”
“āvuso bhikkhave”ti.

“Vâng, thưa Hiền giả,” các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Tôn giả Ānanda.
“Āvuso”ti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ.

Tôn giả Ānanda nói như sau:
Āyasmā ānando etadavoca:

“2. Thật vi diệu thay, thưa các Hiền giả! Thật hi hữu thay, thưa các Hiền giả!
“Acchariyaṃ, āvuso, abbhutaṃ, āvuso.

Như thế nào là con đường thoát ly, thoát khỏi sự trói buộc, được Thế Tôn, bậc Trí giả, bậc Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác tùy giác để các loài hữu tình được thanh tịnh, vượt khỏi sầu bi, chấm dứt khổ ưu, đạt được chánh lý, giác ngộ Niết-bàn.
Yāvañcidaṃ tena bhagavatā jānatā passatā arahatā sammāsambuddhena sambādhe okāsādhigamo anubuddho sattānaṃ visuddhiyā sokaparidevānaṃ samatikkamāya dukkhadomanassānaṃ atthaṅgamāya ñāyassa adhigamāya nibbānassa sacchikiriyāya.

Ðây sẽ chỉ có mắt, chớ không có cảm thọ các sắc ấy và các xứ ấy;
Tadeva nāma cakkhuṃ bhavissati te rūpā tañcāyatanaṃ no paṭisaṃvedissati.

đây chỉ có tai, chớ không có cảm thọ các tiếng ấy và các xứ ấy;
Tadeva nāma sotaṃ bhavissati te saddā tañcāyatanaṃ no paṭisaṃvedissati.

đây chỉ có mũi chớ không có cảm thọ các hương ấy và các xứ ấy;
Tadeva nāma ghānaṃ bhavissati te gandhā tañcāyatanaṃ no paṭisaṃvedissati.

đây chỉ có lưỡi, chớ không có cảm thọ các vị ấy và các xứ ấy;
Sāva nāma jivhā bhavissati te rasā tañcāyatanaṃ no paṭisaṃvedissati.

đây chỉ có thân, chớ không có cảm thọ các xúc ấy và các xứ ấy.”
Sova nāma kāyo bhavissati te phoṭṭhabbā tañcāyatanaṃ no paṭisaṃvedissatī”ti.

3. Khi được nói vậy, Tôn giả Udàyi nói với Tôn giả Ānanda:
Evaṃ vutte, āyasmā udāyī āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca:

“Này Hiền giả Ānanda, người không cảm thọ xứ ấy, người ấy có tưởng hay không có tưởng?”
“saññīmeva nu kho, āvuso ānanda, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedeti udāhu asaññī”ti?

“Này Hiền giả, người không cảm thọ xứ ấy, người ấy có tưởng, không phải không có tưởng.”
“Saññīmeva kho, āvuso, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedeti, no asaññī”ti.

“Nhưng thưa Hiền giả, người không cảm thọ xứ ấy, người ấy tưởng cái gì?”
“Kiṃsaññī panāvuso, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedetī”ti?

“4. Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo vượt qua các sắc tưởng một cách hoàn toàn, chấm dứt các chướng ngại tưởng, không tác ý đến các tưởng sai biệt, biết rằng: “Hư không là vô biên”, chứng đạt và an trú Không vô biên xứ.
“Idhāvuso, bhikkhu, sabbaso rūpasaññānaṃ samatikkamā paṭighasaññānaṃ atthaṅgamā nānattasaññānaṃ amanasikārā ‘ananto ākāso’ti ākāsānañcāyatanaṃ upasampajja viharati.

Này Hiền giả, vị ấy có tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
Evaṃsaññīpi kho, āvuso, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedeti.

5. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo vượt khỏi Không vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: “Thức là vô biên”, chứng đạt và an trú Thức vô biên xứ.
Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu sabbaso ākāsānañcāyatanaṃ samatikkamma ‘anantaṃ viññāṇan’ti viññāṇañcāyatanaṃ upasampajja viharati.

Này Hiền giả, vị ấy có tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
Evaṃsaññīpi kho, āvuso, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedeti.

6. Lại nữa, này Hiền giả, Tỷ-kheo vượt khỏi Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, biết rằng: “Không có vật gì”, chứng đạt và an trú Vô sở hữu xứ.
Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu sabbaso viññāṇañcāyatanaṃ samatikkamma ‘natthi kiñcī’ti ākiñcaññāyatanaṃ upasampajja viharati.

Này Hiền giả, vị ấy có tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.
Evaṃsaññīpi kho, āvuso, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedetīti.

7. Này Hiền giả, một thời tôi sống ở Sāketa, rừng Añjana tại vườn nai.
Ekamidāhaṃ, āvuso, samayaṃ sākete viharāmi añjanavane migadāye.

Rồi này Hiền giả, có một Tỷ-kheo-ni ở Jatilàgàha đến tôi, đảnh lễ tôi và đứng một bên. Ðứng một bên, này các Hiền giả, Tỷ-kheo-ni ở Jaṭilagāhikā thưa với tôi:
Atha kho, āvuso, jaṭilavāsikā bhikkhunī yenāhaṃ tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā maṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho, āvuso, jaṭilavāsikā bhikkhunī maṃ etadavoca:

‘Thưa Tôn giả Ānanda, Thiền định này không thiên tà dục, không dưỡng hận tâm; trong ấy, sự chế ngự không phải do hữu hành nhiếp phục,
‘yāyaṃ, bhante ānanda, samādhi na cābhinato na cāpanato na ca sasaṅkhāraniggayhavāritagato,

nhờ giải thoát, được vững chắc, nhờ vững chắc, được tri túc; nhờ tri túc, không có âu lo.
vimuttattā ṭhito, ṭhitattā santusito, santusitattā no paritassati.

Thưa Tôn giả Ānanda , Thiền định này được Thế Tôn dạy, có quả gì?’
Ayaṃ, bhante ānanda, samādhi kiṃphalo vutto bhagavatā’ti?

Ðược nói vậy, này Hiền giả, tôi nói với Tỷ-kheo-ni ở Jaṭilagāhikā như sau:
Evaṃ vutte, sohaṃ, āvuso, jaṭilavāsikaṃ bhikkhuniṃ etadavocaṃ:

‘Thưa Chị, Thiền định này không thiên tà dục, không dưỡng hận tâm; trong ấy, sự chế ngự không phải do hữu hành nhiếp phục, nhờ giải thoát được vững chắc; nhờ vững chắc, được tri túc; nhờ tri túc, không có âu lo.
‘yāyaṃ, bhagini, samādhi na cābhinato na cāpanato na ca sasaṅkhāraniggayhavāritagato, vimuttattā ṭhito, ṭhitattā santusito, santusitattā no paritassati.

Này Chị, Thiền định này được chánh trí là quả. Thế Tôn nói như vậy”.
Ayaṃ, bhagini, samādhi aññāphalo vutto bhagavatā’ti.

Này Hiền giả, vị ấy có những tưởng như vậy, nhưng không cảm thọ xứ ấy.”
Evaṃsaññīpi kho, āvuso, tadāyatanaṃ no paṭisaṃvedetī”ti.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt