Sáng/Tối
🔍 Việt 🔍 Pali 🔊 About

Dīgha Nikāya – Trường Bộ Kinh

Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

Trường Bộ 20

Trường Bộ 20
Dīgha Nikāya 20

Kinh Đại Hội
Mahāsamayasutta

Như vậy tôi nghe.
Evaṃ me sutaṃ—

Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Mahāvana (Ðại Lâm), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả đều là bậc A-la-hán.
ekaṃ samayaṃ bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṃ mahāvane mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi;

Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
dasahi ca lokadhātūhi devatā yebhuyyena sannipatitā honti bhagavantaṃ dassanāya bhikkhusaṅghañca.

Lúc bấy giờ, bốn vị Tịnh Cư thiên (Suddhāvāsa) suy nghĩ như sau:
Atha kho catunnaṃ suddhāvāsakāyikānaṃ devatānaṃ etadahosi:

“Thế Tôn nay trú tại bộ lạc Sakka, thành Kapilavatthu, ở Ðại Lâm, cùng với Ðại chúng Tỷ-kheo khoảng 500 vị, tất cả đều là bậc A-la-hán. Và chư Thiên ở mười phương thế giới phần lớn cũng thường tập hội để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
“ayaṃ kho bhagavā sakkesu viharati kapilavatthusmiṃ mahāvane mahatā bhikkhusaṅghena saddhiṃ pañcamattehi bhikkhusatehi sabbeheva arahantehi; dasahi ca lokadhātūhi devatā yebhuyyena sannipatitā honti bhagavantaṃ dassanāya bhikkhusaṅghañca.

Vậy chúng ta hãy đến tại chỗ Thế Tôn ở, khi đến xong mỗi chúng ta sẽ đọc một bài kệ dâng lên Thế Tôn”.
Yannūna mayampi yena bhagavā tenupasaṅkameyyāma; upasaṅkamitvā bhagavato santike paccekaṃ gāthaṃ bhāseyyāmā”ti.

Rồi chư Thiên ấy, nhanh như nhà lực sĩ duỗi cánh tay co lại, hay co cánh tay duỗi ra, biến mất từ Tịnh Cư thiên và hiện ra trước mặt Thế Tôn.
Atha kho tā devatā seyyathāpi nāma balavā puriso samiñjitaṃ vā bāhaṃ pasāreyya pasāritaṃ vā bāhaṃ samiñjeyya; evameva—suddhāvāsesu devesu antarahitā bhagavato purato pāturahesuṃ.

Chư Thiên ấy đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên.
Atha kho tā devatā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhaṃsu.

Sau khi đứng một bên, một vị Thiên đọc bài kệ trước Thế Tôn:
Ekamantaṃ ṭhitā kho ekā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi:

“Ðại hội tại Ðại Lâm
“Mahāsamayo pavanasmiṃ,

Chư Thiên đồng tụ tập.
Devakāyā samāgatā;

Chúng con đến Pháp hội
Āgatamha imaṃ dhammasamayaṃ,

Ðảnh lễ chúng Bất Thắng.”
Dakkhitāye aparājitasaṅghan”ti.

Rồi một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi:

Tại đây chúng Tỷ-kheo thiền định
“Tatra bhikkhavo samādahaṃsu,

Thiền định, tâm chánh trực.
Cittamattano ujukaṃ akaṃsu;

Như chủ xe nắm cương,
Sārathīva nettāni gahetvā,

Bậc trí hộ các căn.”
Indriyāni rakkhanti paṇḍitā”ti.

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi:

“Như khóa gãy, chốt tháo,
“Chetvā khīlaṃ chetvā palighaṃ,

Cửa trụ bị đào lên.
Indakhīlaṃ ūhacca manejā;

Sống thanh tịnh, vô nhiễm,
Te caranti suddhā vimalā,

Như voi khéo điều phục.”
Cakkhumatā sudantā susunāgā”ti.

Lại một vị Thiên khác cũng đọc lên một bài kệ trước Thế Tôn:
Atha kho aparā devatā bhagavato santike imaṃ gāthaṃ abhāsi:

“Những ai quy y Phật,
“Ye keci buddhaṃ saraṇaṃ gatāse,

Sẽ không đọa ác thú,
Na te gamissanti apāyabhūmiṃ;

Sau khi bỏ thân người,
Pahāya mānusaṃ dehaṃ,

Sẽ sanh làm chư Thiên.”
Devakāyaṃ paripūressantī”ti.

Rồi Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo:
Atha kho bhagavā bhikkhū āmantesi:

Này các Tỷ-kheo, phần lớn chư Thiên mười phương thế giới tụ họp để chiêm ngưỡng Thế Tôn và chúng Tỷ-kheo.
“yebhuyyena, bhikkhave, dasasu lokadhātūsu devatā sannipatitā honti, tathāgataṃ dassanāya bhikkhusaṅghañca.

Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời quá khứ đã là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy.
Yepi te, bhikkhave, ahesuṃ atītamaddhānaṃ arahanto sammāsambuddhā, tesampi bhagavantānaṃ etapparamāyeva devatā sannipatitā ahesuṃ seyyathāpi mayhaṃ etarahi.

Này các Tỷ-kheo, những vị nào trong thời vị lai sẽ là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, những vị này cũng sẽ được một Thiên chúng tối thắng tụ hội xung quanh, như Ta hiện nay vậy.
Yepi te, bhikkhave, bhavissanti anāgatamaddhānaṃ arahanto sammāsambuddhā, tesampi bhagavantānaṃ etapparamāyeva devatā sannipatitā bhavissanti seyyathāpi mayhaṃ etarahi.

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ tuyên bố danh tánh của chư Thiên.
Ācikkhissāmi, bhikkhave, devakāyānaṃ nāmāni;

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ cáo tri danh tánh của chư Thiên.
kittayissāmi, bhikkhave, devakāyānaṃ nāmāni;

Này các Tỷ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng danh tánh của chư Thiên.
desessāmi, bhikkhave, devakāyānaṃ nāmāni.

Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.”
Taṃ suṇātha, sādhukaṃ manasikarotha, bhāsissāmī”ti.

“Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tỷ-kheo ấy vâng lời Thế Tôn.
“Evaṃ, bhante”ti kho te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

Thế Tôn giảng như sau:
Bhagavā etadavoca:

“Bài kệ Ta sẽ giảng,
“Silokamanukassāmi,

Chư thiên trú địa cầu.
yattha bhummā tadassitā;

Những vị trú hang núi,
Ye sitā girigabbharaṃ,

Tâm tịnh, an thiền định.
pahitattā samāhitā.

Như sư tử một mình,
Puthūsīhāva sallīnā,

Làm hoảng sợ quần sanh,
lomahaṃsābhisambhuno;

Tâm tư thuần tịnh bạch,
Odātamanasā suddhā,

Trong sáng, không cấu uế.
vippasannamanāvilā.

Biết hơn năm trăm vị,
Bhiyyo pañcasate ñatvā,

Họp tại Ca-tỳ-la
vane kāpilavatthave;

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng
Tato āmantayī satthā,

Chúng đệ tử thích nghe:
sāvake sāsane rate.

Chư Thiên chúng đến gần
‘Devakāyā abhikkantā,

Các Tỷ-kheo hãy xem.”
te vijānātha bhikkhavo’;

Ðại chúng nhiệt tình xem.
Te ca ātappamakaruṃ,



Nghe lời dạy đức Phật
sutvā buddhassa sāsanaṃ.

Và hiện ra trước chúng
Tesaṃ pāturahu ñāṇaṃ,

Thấy rõ hàng phi nhân
amanussānadassanaṃ;

Kẻ thấy trăm thiên thần,
Appeke satamaddakkhuṃ,

Kẻ thấy bảy mươi ngàn
sahassaṃ atha sattariṃ.

Ngàn thần, và hơn nữa.
Sataṃ eke sahassānaṃ,

Toàn các bậc phi nhân.
amanussānamaddasuṃ;

Kẻ thấy vô lượng vị,
Appekenantamaddakkhuṃ,

Cùng khắp mọi phương hướng.
disā sabbā phuṭā ahuṃ.

Và phân biệt tất cả
Tañca sabbaṃ abhiññāya,

Với pháp nhãn thấy rõ
vavatthitvāna cakkhumā;

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
Tato āmantayī satthā,

Chúng đệ tử thích nghe:
sāvake sāsane rate.

‘Chư Thiên chúng đến gần
‘Devakāyā abhikkantā,

Các Tỷ-kheo hãy xem,
te vijānātha bhikkhavo;

Ta sẽ theo thứ lớp
Ye vohaṃ kittayissāmi,

Thuyết kệ cho người nghe.’
girāhi anupubbaso’.



Bảy ngàn loại Dạ-xoa
Sattasahassā te yakkhā,

Trú tại Ca-tỳ-la,
bhummā kāpilavatthavā;

Có thần lực hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.

Sáu ngàn từ Tuyết Sơn
Chasahassā hemavatā,

Dạ-xoa đủ sắc mặt
yakkhā nānattavaṇṇino;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Ba ngàn từ Sātā,
Sātāgirā tisahassā,

Dạ-xoa đủ sắc mặt,
yakkhā nānattavaṇṇino;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.

Như vậy mười sáu ngàn,
Iccete soḷasasahassā,

Dạ-xoa đủ sắc mặt,
yakkhā nānattavaṇṇino;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Năm trăm từ Vessamittā,
Vessāmittā pañcasatā,

Dạ-xoa đủ sắc mặt,
yakkhā nānattavaṇṇino;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Kumbhira, Vương Xá,
Kumbhīro rājagahiko,

Trú tại Vepulla,
vepullassa nivesanaṃ;

Đến tham dự đông đảo,
Bhiyyo naṃ satasahassaṃ,

Hơn trăm ngàn Dạ-xoa,
yakkhānaṃ payirupāsati;

Kumbhira, Vương Xá
Kumbhīro rājagahiko,

Cũng đến họp rừng này.
sopāgā samitiṃ vanaṃ.

Vua Dhataraṭṭha (Trì Quốc Thiên vương)
Purimañca disaṃ rājā,

Trị vì tại phương Ðông,
dhataraṭṭho pasāsati;

Chúa tể Càn-thát-bà,
Gandhabbānaṃ adhipati,

Bậc đại vương danh tiếng.
mahārājā yasassiso.

Vị này có nhiều con,
Puttāpi tassa bahavo,

Ðại lực, tên Indra,
indanāmā mahabbalā;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Quốc vương Virūḷha (Tăng Trưởng Thiên vương).
Dakkhiṇañca disaṃ rājā,

Trị vì tại phương Nam,
virūḷho taṃ pasāsati;

Chúa tể Cưu-bàn-trà (Kumbhanda)
Kumbhaṇḍānaṃ adhipati,

Bậc đại vương danh tiếng,
mahārājā yasassiso.

Vị này có nhiều con,
Puttāpi tassa bahavo,

Ðại lực, tên Indra
indanāmā mahabbalā;

Có thần lực, hào quang.
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Vua Virūpakkha, (Quảng Mục Thiên vương)
Pacchimañca disaṃ rājā,

Trị vì tại phương Tây,
virūpakkho pasāsati;

Chúa tể loài Nāgā,
Nāgānañca adhipati,

Bậc đại vương danh tiếng.
mahārājā yasassiso.

Vị này có nhiều con
Puttāpi tassa bahavo,

Ðại lực, tên Indra,
indanāmā mahabbalā;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Quốc vương Kuvera, (Ða Văn Thiên vương)
Uttarañca disaṃ rājā,

Trị vì tại phương Bắc,
kuvero taṃ pasāsati;

Chúa tể, loài Dạ-xoa,
Yakkhānañca adhipati,

Bậc đại vương, danh tiếng.
mahārājā yasassiso.

Vị này có nhiều con,
Puttāpi tassa bahavo,

Ðại lực, tên Indra,
indanāmā mahabbalā;

Có thần lực, hào quang,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Trì Quốc vương (Dhataraṭṭha), phương Ðông
Purimaṃ disaṃ dhataraṭṭho,

Tăng Trưởng vương (Virūḷhaka), phương Nam
dakkhiṇena virūḷhako;

Quảng Mục vương (Virūpakkha), phương Tây,
Pacchimena virūpakkho,

Ða Văn vương (Kuvera), phương Bắc,
kuvero uttaraṃ disaṃ.

Bốn bậc đại vương này,
Cattāro te mahārājā,

Khắp cả bốn phương trời,
samantā caturo disā;

Cùng đứng, chói hào quang,
Daddallamānā aṭṭhaṃsu,

Khắp rừng Ca-tỳ-la.
vane kāpilavatthave.

Cùng đến các bộ hạ,
Tesaṃ māyāvino dāsā,

Phản bội và xảo quyệt,
āguṃ vañcanikā saṭhā;

Kẻ dối gạt Kuṭeṇḍu, Viṭeṇḍu,
Māyā kuṭeṇḍu viṭeṇḍu,

Viṭucca và Viṭuḍa.
viṭucca viṭuṭo saha.

Candana và Kāmaseṭṭha,
Candano kāmaseṭṭho ca,

Kinnughaṇḍu và Nighaṇḍu,.
kinnighaṇḍu nighaṇḍu ca;

Panāda và Opamañña,
Panādo opamañño ca,

Mātali (người đánh xe chư Thiên).
devasūto ca mātali.

Càn-thát-bà Cittasena;
Cittaseno ca gandhabbo,

Vua Nala, Janesabha
naḷorājā janesabho;

Cũng như Pañcasikha,
Āgā pañcasikho ceva,

Timbarū, và Sūriyavacchasā.
timbarū sūriyavacchasā.

Như vậy cả vua chúa,
Ete caññe ca rājāno,

Cùng với Càn-thát-bà,
gandhabbā saha rājubhi;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Các Nāgā từ Nābhasa,
Athāguṃ nāgasā nāgā,

Vesālī, và Tacchakas.
vesālā sahatacchakā;

Kambalas và Assataras cũng đến
Kambalassatarā āguṃ,

Pāyāga cùng quyến thuộc.
pāyāgā saha ñātibhi.

Từ Yamunā Dhataraṭṭha,
Yāmunā dhataraṭṭhā ca,

Các Nāgā danh tiếng cũng đến.
āgū nāgā yasassino;

Long vương Erāvaṇa,
Erāvaṇo mahānāgo,

Cũng đến tại khu rừng.
sopāgā samitiṃ vanaṃ.

Những thiên điểu nhị sanh với mắt thanh tịnh,
Dibbā dijā pakkhi visuddhacakkhū;

Mãnh liệt chống Long vương,
Ye nāgarāje sahasā haranti,

Đáp xuống khu rừng.
Vehāyasā te vanamajjhapattā,

Tên chúng là Kim Sí Điểu Citrā,
Citrā supaṇṇā iti tesa nāmaṃ.

Long vương không sợ hãi,
Abhayaṃ tadā nāgarājānamāsi,

Nhờ ơn Phật an toàn,
Supaṇṇato khemamakāsi buddho;

Với những lời nhẹ nhàng,
Saṇhāhi vācāhi upavhayantā,

Đều đến quy y Phật,
Nāgā supaṇṇā saraṇamakaṃsu buddhaṃ.



Đánh bại bởi Kim Cang Thủ,
Jitā vajirahatthena,

Asura ở biển,
samuddaṃ asurāsitā;

Anh của Vāsava,
Bhātaro vāsavassete,

Có thần lực danh xưng.
iddhimanto yasassino.

Kālakañjas, dị hình, (Tu-la)
Kālakañcā mahābhismā,

Asura Dānaveghasa
asurā dānaveghasā;

Vepacitti và Sucitti,
Vepacitti sucitti ca,

Pahārāda với Namuci.
pahārādo namucī saha.

Và 100 con trai của Bali,
Satañca baliputtānaṃ,

Đặt tên Veroca;
sabbe verocanāmakā;

Cùng đội quân Bali,
Sannayhitvā balisenaṃ,

Đến Rāhu và nói:
rāhubhaddamupāgamuṃ;

“Nay phải thời, bạch ngài;
‘Samayo dāni bhaddante,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo!
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ’.



Thần nước, đất,
Āpo ca devā pathavī,

Thần lửa và gió cũng đến
tejo vāyo tadāgamuṃ;

Thần Varuṇa và Vāruṇa,
Varuṇā vāraṇā devā,

Soma cùng với Yasa
somo ca yasasā saha.

Chư Thiên Từ Bi sanh
Mettā karuṇā kāyikā,

Có danh xưng cũng đến
āguṃ devā yasassino;

Mười vị thiên tộc này
Dasete dasadhā kāyā,

Hào quang thật dị biệt,
sabbe nānattavaṇṇino.

Có thần lực, sáng chói,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Thiên chúng Veṇhu và Sahali,
Veṇḍudevā sahali ca,

Asama, và Yamas đến
asamā ca duve yamā;

Chư Thiên thuộc Nguyệt tộc,
Candassūpanisā devā,

Vị thủ lãnh đi trước.
candamāguṃ purakkhatvā.

Chư Thiên thuộc Nhật tộc.
Sūriyassūpanisā devā,

Vị thủ lãnh đi trước,
sūriyamāguṃ purakkhatvā;

Đi cùng thần mây.
āguṃ mandavalāhakā.

Quần tinh vị thủ lãnh,
Nakkhattāni purakkhatvā,



Vua Sakka purindado đã đến
Sakkopāgā purindado;

Gọi là Vāsava,
Vasūnaṃ vāsavo seṭṭho,

Mười vị Thiên tộc này,
Dasete dasadhā kāyā,

Hào quang thật dị biệt,
sabbe nānattavaṇṇino.

Có thần lực, sáng chói,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng.
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Sahabhū cũng đến,
Athāguṃ sahabhū devā,

Với đầu lửa đỏ rực,
jalamaggi sikhāriva;

Ariṭṭhakas và Rojas cũng thế
Ariṭṭhakā ca rojā ca,

Thần màu (lam) tựa hoa gai;
umāpupphanibhāsino.

Varuṇas và Sahadhammas,
Varuṇā sahadhammā ca,

Accutas và Anejakas
accutā ca anejakā;

Sūleyyas và Ruciras cũng đến
Sūleyyarucirā āguṃ,

Cũng như thiên chúng Vāsavanesi.
āguṃ vāsavanesino;

Mười vị Thiên tộc này,
Dasete dasadhā kāyā,

Hào quang thật dị biệt
sabbe nānattavaṇṇino.

Có thần lực, sáng chói,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Samānas, Mahāsamānas,
Samānā mahāsamanā,

Mānusas, Mānusuttamas cùng đến
mānusā mānusuttamā;

Và Thiên Chúng sa đoạ,
Khiḍḍāpadosikā āguṃ,

Cùng những vị ác tâm
āguṃ manopadosikā.

Rồi đến Thiên Chúng Hari Athāguṃ harayo devā,
Lohitavāsīsye ca lohitavāsino;

Pāragas, Mahāpāragas cũng đến
Pāragā mahāpāragā,

Có danh xưng cũng đến.
āguṃ devā yasassino;

Mười vị Thiên tộc này,
Dasete dasadhā kāyā,

Với hào quang dị biệt
sabbe nānattavaṇṇino.

Có thần lực, sáng chói,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng,
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Sukkas, Karumhas, và Aruṇas
Sukkā karambhā aruṇā,

Đi cùng Veghanasas
āguṃ veghanasā saha;

Odātagayhas dẫn đầu,
Odātagayhā pāmokkhā,

Vicakkhaṇa cũng đến,
āguṃ devā vicakkhaṇā.

Sadāmattas và Hāragajas,
Sadāmattā hāragajā,

Missakā có danh xưng cũng đến.
missakā ca yasassino;

Pajjunna thần sét,
Thanayaṃ āga pajjunno,

Làm mưa khắp mọi phương.
yo disā abhivassati.

Mười vị Thiên tộc này,
Dasete dasadhā kāyā,

Với hào quang dị biệt,
sabbe nānattavaṇṇino;

Có thần lực, sáng chói,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng;
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.

Khemiyā, Tusitā, Yamā,
Khemiyā tusitā yāmā,

Danh xưng Kaṭṭhakas;
kaṭṭhakā ca yasassino;

Lambītakas, Lāmaseṭṭhas,
Lambītakā lāmaseṭṭhā,

Tên gọi Jotināmā, Asava,
jotināmā ca āsavā;

Tha Hóa Tự Tại thiên,
Nimmānaratino āguṃ,

Hóa Lạc thiên cũng đến.
athāguṃ paranimmitā.

Mười vị thiên tộc này,
Dasete dasadhā kāyā,

Với hào quang dị biệt,
sabbe nānattavaṇṇino;

Có thần lực, sáng chói,
Iddhimanto jutimanto,

Có sắc tướng, danh xưng
vaṇṇavanto yasassino;

Hoan hỷ đến rừng này,
Modamānā abhikkāmuṃ,

Chiêm ngưỡng chúng Tỷ-kheo.
bhikkhūnaṃ samitiṃ vanaṃ.



Sáu mươi Thiên chúng này,
Saṭṭhete devanikāyā,

Với hào quang dị biệt,
Saṭṭhete devanikāyā,

Theo danh tộc chúng đến,
Nāmanvayena āgacchuṃ,

Cùng nhiều vị, nghĩ rằng:
ye caññe sadisā saha.

Chúng con thấy vị ấy,
oghatiṇṇamanāsavaṃ;

Ðã thành bậc Vô Lậu.
‘Pavuṭṭhajātimakhilaṃ,

Như rồng vượt bộc lưu,
Dakkhemoghataraṃ nāgaṃ,

Như trăng thoát mây tối”.
candaṃva asitātigaṃ’.



Subrahmā, Paramatta,
Subrahmā paramatto ca,

Con các vị thần lực,
puttā iddhimato saha;

Sanamkumāra Tissa,
Sanaṅkumāro tisso ca,

Ðến hội tại ngôi rừng.
sopāga samitiṃ vanaṃ.

Ðại Phạm thiên, chúa tể,
mahābrahmābhitiṭṭhati;

Ngự trị ngàn Phạm giới,
Sahassaṃ brahmalokānaṃ,

Thác sanh có hào quang,
Upapanno jutimanto,

Dị hình có danh xưng.
bhismākāyo yasassiso.

Mười đấng Tự Tại (Issarās) đến,
Dasettha issarā āguṃ,

Mỗi vị ngự mỗi cõi,
paccekavasavattino;

Vị ở giữa cũng đến,
Tesañca majjhato āga,

Hārita cùng đồ chúng.
hārito parivārito.



Tất cả đều cùng đến,
Te ca sabbe abhikkante,

Với Indra, Phạm thiên,
sainde deve sabrahmake;

Ma quân cũng tiến đến,
Mārasenā abhikkāmi,

Xem Hắc quỷ ngu si.
passa kaṇhassa mandiyaṃ.

“Hãy đến và bắt trói,
‘Etha gaṇhatha bandhatha,

Những ai bị tham triền,
rāgena baddhamatthu vo;

Hãy bao vây bốn phía,
Samantā parivāretha,

Chớ để ai thoát ly!”
mā vo muñcittha koci naṃ’.

Như vậy Ðại Tướng quân,
Iti tattha mahāseno,

Truyền lệnh đoàn Hắc quỷ,
kaṇho senaṃ apesayi;

Với bàn tay vỗ đất,
Pāṇinā talamāhacca,

Tiếng dội vang khiếp đảm.
saraṃ katvāna bheravaṃ.

Như trong cơn giông tố,
Yathā pāvussako megho,

Sấm chớp và mưa rào,
thanayanto savijjuko;

Nó liền thối quân lui,
Tadā so paccudāvatti,

Phẫn nộ nhưng bất lực.
saṅkuddho asayaṃvase.



Với pháp nhãn thấy rõ,
vavatthitvāna cakkhumā;

Và phân biệt tất cả,
Tañca sabbaṃ abhiññāya,

Bậc Ðạo Sư thuyết giảng,
Tato āmantayī satthā,

Chúng đệ tử thích nghe:
sāvake sāsane rate.

“Ma quân đã tiến đến;
‘Mārasenā abhikkantā,

Tỷ-kheo hãy biết chúng”.
te vijānātha bhikkhavo’;

Đại chúng tâm nhiệt tình.
Te ca ātappamakaruṃ,

Nghe lời dạy đức Phật,
sutvā buddhassa sāsanaṃ;

Kẻ thù rời bỏ đi,
Vītarāgehi pakkāmuṃ,

Sợi tóc không lay động.
nesaṃ lomāpi iñjayuṃ.

‘Tất cả đều chiến thắng,
‘Sabbe vijitasaṅgāmā,

Vô úy và vô xưng;
bhayātītā yasassino;

Danh xưng, tâm hoan hỷ.
Modanti saha bhūtehi,

Ðệ tử những vị này.”
sāvakā te janesutā’”ti.


Mahāsamayasuttaṃ niṭṭhitaṃ sattamaṃ.


Hoà Thượng Thích Minh Châu dịch Việt